Thứ Hai, 22 tháng 12, 2008

TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Lời mở đầu

Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh, đạt mức cao kỷ lục trong 10 tháng đầu năm 2007 khi Việt Nam tiếp tục hưởng những lợi ích của việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới đầu năm nay.Văn phòng Tổng cục Thống kê cho hay, Chính phủ đã thông qua các dự án đầu tư nước ngoài trị giá 9,75 tỉ USD và cấp giấy phép cho 1.144 dự án mới tính đến tháng 10.
Tổng số vốn còn tăng hơn, lên đến 11,26 tỉ USD (tăng 36,4% so với cùng kỳ năm ngoái) nếu tính thêm cả 1,51 tỉ USD tăng vốn của 300 dự án được cấp phép.
Khoảng 3,71 tỉ USD trong số 9,75 tỉ USD đầu tư đã vào Việt Nam trong 10 tháng đầu năm và được triển khai tới các điểm đầu tư (tăng 18,8% so với cùng kỳ 2006).
Hàn Quốc đứng đầu danh sách đầu tư nước ngoài ở Việt Nam với tổng số vốn là 2,44 tỉ USD, Quần đảo Virgin thuộc Anh với 1,73 tỷ USD và Singapore với 1,37 tỷ USD.
Tuy nhiên, môi trường đầu tư Việt Nam vẫn kém hấp dẫn thu hút FDI vì chúng ta phụ thuộc khá nhiều vào chính sách Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sau đây là một số tồn tại trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam:
a) Phổ biến hiện nay hầu như các tỉnh, thành phố đều tập trung mọi cố gắng thu hút FDI vào địa bàn của mình bất kể ngành nào, sản phẩm gì, vì vậy FDI quá tập trung vào các ngành chế biến lương thực - thực phẩm: rượu, bia, nước giải khát, các ngành sản xuất tiêu dùng, chưa có sự đầu tư thích đáng vào ngành sản xuất tư liệu sản xuất, chỉ đầu tư lắp ráp cơ khí điện tử.
b) Chính sách nội địa hoá chưa thoả đáng. Đáng lẽ cần phải tăng cường nội địa hoá thì chính sách của Việt Nam còn chưa chú trọng, phải nhập phụ tùng linh kiện từ bên ngoài, do đó làm tăng giá thành sản phẩm, giảm khả năng cạnh tranh.
c) Việt Nam không có chính sách chuyển giao công nghệ như các nước Trung Quốc, Hàn Quốc… Giá thành của ô tô sản xuất trong nước cao hơn khu vực khá lớn là do tỷ lệ nội địa hoá quá thấp.
d) Chính sách giá chưa hợp lý, chi phí đầu tư vào Việt Nam còn quá cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam, làm nản lòng các nhà đầu tư.
Cước điện thoại quốc tế của Việt Nam, Chi phí lưu thông giao nhận nếu gửi hàng container ,Các chi phí và lệ phí liên quan đến giao nhận tại các cảng biển và sân bay quá cao. Có 12 loại phí và lệ phí bất hợp lý mà doanh nghiệp phải nộp như phí lưu kho sân bay 1.200đ/kg, phí an ninh 230đ/kg, phí lao vụ 0,06 USD/kg...Giá điện cao hơn 50%, giá nước cao hơn 71% so với ASEAN, Trung Quốc.
e) Giá cả đất đai của thành phố ở Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, giá thuê đất TP. Hồ Chí Minh gấp 4-6 lần Trung Quốc, 6 lần so với Thái Lan. Tình hình này ảnh hưởng lớn đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
f) Ngoài ra quan điểm nới lỏng đầu vào quản lý chặt đầu ra, hậu kiểm thay thế tiền kiểm như các nhà đầu tư nước ngoài từng nói Chính phủ Việt Nam chỉ khuyến khích đầu tư không khuyến khích sản xuất, tiền hậu bất nhất không nhất quán. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho thu hút FDI của ta giảm.
Tóm lại, nguyên nhân chủ yếu khiến môi trường đầu tư Việt Nam giảm thu hút đầu tư nước ngoài là do giá đầu vào như nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu còn cao nhất tại khu vực ASEAN. Ngoài ra môi trường đầu tư Việt Nam thiếu hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, không nhất quán và không minh bạch.Để khắc phục những tồn tại trên, chúng ta cần nghiên cứu một số giải pháp để tăng cường nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Môi trường kinh tế Việt Nam khá ổn định, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, bình quân mỗi năm thu nhập tăng khoảng 4 - 5% là mức cao so với khu vực. Đó là điều kiện để không ngừng mở rộng dung lượng của thị trường. Chỉ số phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đạt mức cao hơn trình độ phát triển kinh tế, phản ánh những điểm nổi trội của chất lượng nguồn nhân lực, có khả năng tiếp thu và thích nghi hoá chuyển giao công nghệ để không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế, nhất là trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, đẩy mạnh cải cách hành chính, ngày càng tạo thêm thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa chính sách thu hút đầu tư nước ngoài bằng những biện pháp cụ thể sau:

1- Xây dựng hệ thống cơ chế chính sách cụ thể để cải thiện môi trường kinh doanh và khuyến khích mang tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực, nhất là đối với các lĩnh vực, địa bàn và các dự án ưu tiên khuyến khích đầu tư. Tiếp tục điều chỉnh một bước giảm giá và chi phí của các dịch vụ; sửa đổi một số chính sách để tạo thuận lợi cho việc triển khai dự án đầu tư, thế chấp quyền sử dụng đất; giải phóng mặt bằng, bảo lãnh đầu tư. Đẩy nhanh việc xây dựng và triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư áp dụng chung cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư nước ngoài với những nội dung cơ bản sau:
a ) Thể chế hóa chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế phải được hoạt động trên một khuôn khổ pháp lý chung, bình đẳng. Bước đột phá quan trọng trong thời gian qua đó là sự phá bỏ độc quyền trong cung cấp dịch vụ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mới như: Viettel, EVN Telecom, Hanoi Telecom... phát triển. Chính vì vậy hiện nay, giá thành dịch vụ ICT đã rẻ hơn trước rất nhiều, chuẩn chất lượng được nâng lên. Hiện nay, các doanh nghiệp đã bao sân hầu hết các dịch vụ về thoại, Internet, các dịch vụ gia tăng khác.
b) Mở rộng và phát triển quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư và các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Doanh nghiệp có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh, được lựa chọn, thay đổi hình thức tổ chức quản lý nội bộ, hình thức đầu tư thích ứng với yêu cầu kinh doanh và được pháp luật bảo hộ.

c ) Đơn giản hóa thủ tục hành chính. Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, áp dụng phổ biến chế độ đăng ký (thay cho cấp phép), xóa bỏ những quy định “xin-cho”, “phê duyệt”, “chấp thuận” bất hợp lý, trái với nguyên tắc tự do kinh doanh, gây phiền hà cho doanh nghiệp. Để tăng cường sự quản lý thống nhất đầu tư nước ngoài trong điều kiện đẩy mạnh phân cấp cho các cơ quan chính quyền địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành và UBND địa phương. Tăng cường, việc giám sát công tác ban hành các văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài của các Bộ, ngành và UBND địa phương nhằm đảm bảo tính thống nhất, không chồng chéo và vượt khuôn khổ pháp luật hiện hành.
Minh bạch hóa thủ tục cấp đất và sử dụng đất. Hoàn chỉnh các biện pháp và quy trình về thủ tục giao quyền sử dụng đất liên quan đến các dự án đầu tư nước ngoài, hướng tới giảm bớt các đầu mối trung gian không cần thiết để rút ngắn khoảng thời gian chờ đợi kéo dài cho các chủ đầu tư. Cải tiến và tạo cơ chế phối hợp có hiệu quả giữa chính quyền các cấp trong việc triển khai các thủ tục cho thuê đất thực hiện dự án.

d ) Chuyển đổi chức năng quản lý của Nhà nước theo hướng coi việc khuyến khích, hướng dẫn, trợ giúp doanh nghiệp là chức năng chính, coi nhà đầu tư và doanh nghiệp là đối tượng phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước. Cần quy định rõ và đủ chi tiết cụ thể về trách nhiệm, các quan hệ giữa cơ quan nhà nước đối với nhà đầu tư và doanh nghiệp, về việc thực hiện các mối quan hệ đó cũng như chế tài khi có những vi phạm từ hai phía. Điều chỉnh các quy định về thành lập, tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tiến tới thực hiện đối xử quốc gia đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Để không gây ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn chuyển đổi từ Luật cũ sang Luật mới, cần làm tốt công tác chuẩn bị, nhất là sớm xây dựng Thông tư hướng dẫn, tập huấn về các Luật, tuyên truyền rộng rãi về nội dung của các Luật mới trên các phương tiện thông tin đại chúng.

2- Đẩy mạnh việc thực hiện đa dạng hóa hình thức đầu tư:
Một là, nới lỏng các điều kiện để thu hút nhiều hơn đầu tư gián tiếp thông qua việc cho phép mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam, thành lập các doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài và cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phát hành trái phiếu để huy động vốn ở trong nước và nước ngoài.
Hai là, cho phép thành lập Công ty hợp danh. Đối với một số lĩnh vực kinh doanh tính chất chuyên môn, nghiệp vụ cao như tư vấn pháp luật, kiểm toán, tư vấn tài chính., công ty hợp danh là hình thức được áp dụng phổ biến trên thế giới. Tại Việt Nam, một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc các lĩnh vực trên đã được cấp giấy phép đầu tư, tuy nhiên dưới hình thức công ty TNHH. Để góp phần nâng cao chất lượng một số loại dịch vụ thiết yếu, bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng, cho phép thành lập doanh nghiệp hợp danh có vốn đầu tư nước ngoài.
Ba là, cho phép các công ty nước ngoài mở chi nhánh tại Việt Nam.
Để mở rộng hình thức thu hút đầu tư nước ngoài phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là tranh thủ tiềm lực của các công ty xuyên quốc gia, cần nghiên cứu bổ sung các quy định cho phép thành lập chi nhánh của Công ty nước ngoài tại Việt Nam.
Bốn là, cho phép thành lập Công ty quản lý vốn (Holding Company).
Một số tập đoàn kinh tế lớn đã đầu tư cùng lúc nhiều dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, mỗi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có cùng một chủ đầu tư có bộ máy điều hành riêng, hoạt động kinh doanh độc lập. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh tranh, giảm những chi phí không cần thiết..., cần khẩn trương nghiên cứu cho phép các tập đoàn lớn thành lập công ty quản lý vốn, điều phối và hỗ trợ các dự án đầu tư của họ tại Việt Nam.

3 - Nâng cao chất lượng xây dựng Danh mục dự án đầu tư:
Xây dựng Danh mục dự án gọi vốn đầu tư thống nhất, minh bạch, rõ ràng có thể dự đoán trước các lĩnh vực đầu tư theo tiêu chí cấm đầu tư, đầu tư có điều kiện căn cứ trên các quy hoạch ngành, lãnh thổ trong từng thời kỳ, có chú ý việc khai thác lợi thế tại chỗ và hiệu quả kinh tế, xã hội mà dự án đem lại cũng như phù hợp với mối quan tâm của các nhà đầu tư. Các dự án cần đáp ứng các điều kiện thông tin về mục tiêu, địa điểm, đối tác thực hiện, hình thức đầu tư, nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ và cơ sở hạ tầng.

4 - Đầu tư cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng như cung cấp điện, nước, viễn thông, dịch vụ cảng biển, thông tin, cũng như nâng cao chất lượng các dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ kỹ thuật, công nghệ để tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh.

a) Trong lĩnh vực nông nghiệp:
Vốn ngân sách, vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) sẽ được đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn, đào taọ nghề cho nông dân, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, taọ điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi đầu tư vào Việt Nam.

b) Trong lĩnh vực viễn thông và công nghệ thông tin:
Các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu ứng dụng công nghệ mới CDMA; chủ động mở hướng đầu tư mới, đơn cử như: VNPT đã đầu tư sang Mỹ, Viettel đầu tư sang Cămpuchia; chủ động trong hợp tác quốc tế với các Tập đoàn lớn của Thụy Điển, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

5 - Về lao động-tiền lương:
+ Tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm ngăn chặn đình công bất hợp pháp;
+ Đẩy nhanh việc triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, nhất là về nhà ở và điều kiện sinh hoạt của người lao động. Cần có chương trình cụ thể về tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng cho nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả về cán bộ quản lý các cấp và cán bộ kỹ thuật.

6 -Tổ chức các chương trình vận động xúc tiến đầu tư:
+ Tiếp tục tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu về môi trường đầu tư chung tại các địa bàn và đối tác đã được nghiên cứu và xác định. Bên cạnh đó, tổ chức các cuộc hội thảo chuyên ngành, hoặc lĩnh vực tại các địa bàn có thế mạnh với sự tham gia của các cơ quan chuyên ngành. Đổi mới phương pháp trình bày tại các hội thảo, sử dụng các phương tiện nghe, nhìn nhằm thu hút quan tâm của người tham dự hội thảo.
+ Kết hợp với các chuyến đi thăm, làm việc nước ngoài của các nhà lãnh đạo Đảng, Chính phủ để tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu môi trường đầu tư, mời các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước phát biểu tại các cuộc hội thảo nhằm xây dựng hình ảnh tốt về sự quan tâm của Chính phủ đối với đầu tư nước ngoài.
+ Lựa chọn và chuẩn bị thông tin một số dự án có tính khả thi cao để đưa ra giới thiệu với các doanh nghiệp nước ngoài nhân các chuyến đi thăm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
+ Phối hợp với các tổ chức nước ngoài, thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí nước sở tại; thực hiện các đợt tuyên truyền, giới thiệu về Việt Nam.
+ Phối hợp với các cơ quan liên quan duy trì, nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư, kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư. Cần quán triệt tinh thần thực hiện những điều đã hứa với nhà đầu tư và có phản hồi.
+ Định kỳ tổ chức các cuộc trao đổi về công tác xúc tiến đầu tư, thống nhất các định hướng, giải pháp thu hút đầu tư, trao đổi các thông tin liên quan đến địa bàn, đối tác vận động đầu tư.
+ Cần tăng cường hơn nữa việc tiếp cận và hỗ trợ để thu hút đầu tư của các TNCs trên cơ sở tạo mọi điều kiện tối đa nhằm đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư.
+ Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư nói riêng và quản lý đầu tư nói chung. Vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế hỗ trợ mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý đầu tư nước ngoài.
+ Xây dựng các văn phòng xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm hoặc cử cán bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư công tác tại các Đại sứ quán để thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư. Trước mắt, thực hiện tại các địa bàn Nhật Bản, Đức hoặc Anh và duy trì đại diện hiện có của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Đài Loan, Hoa Kỳ. Ngoài ra, đề nghị UNIDO xem xét nối lại chương trình cử đại diện Việt Nam tại Văn phòng xúc tiến đầu tư của UNIDO (IPS) tại một số nước và khu vực trọng điểm (Nhật Bản, Pháp, Hàn Quốc, áo, Italia, Hoa Kỳ);
+ Cần thống nhất về chủ trương và xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan Trung ương và địa phương trong vận động xúc tiến đầu tư trên cơ sở Bộ Kế hoạch và Đầu tư hỗ trợ các địa phương ít có điều kiện tham gia các đợt vận động xúc tiến đầu tư tại nước ngoài. Xây dựng cơ chế phối hợp trong điều kiện các địa phương có điều kiện mở các văn phòng xúc tiến đầu tư ở nước ngoài;
Để thực hiện có hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư, cần tổ chức nghiên cứu địa bàn, đối tác vận động đầu tư theo hướng nghiên cứu chiến lược phát triển, thực trạng và xu hướng đầu tư của các công ty lớn, tập đoàn xuyên quốc gia tại các khu vực quan trọng như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Trước mắt, tập trung nghiên cứu các khả năng tiếp cận với các công ty tại thị trường Hoa Kỳ là thị trường nhiều tiềm năng, nhưng ta ít có kinh nghiệm. Ngoài ra, cần tập trung nghiên cứu tình hình, xu hướng đầu tư trên thế giới, và trong khu vực, các cơ chế hợp tác song phương, đa phương về đầu tư và kinh nghiệm thu hút đầu tư của các nước.
+ Tiếp tục thực hiện các hợp tác về xúc tiến đầu tư với các nước như Nhật Bản, Singapore, Thái Lan thông qua các tổ chức như JICA, JETRO (Nhật Bản) , EDB (Singapore), BOI (Thái Lan), GTZ (Đức) và nối lại hợp tác xúc tiến đầu tư với MIDA của Malaysia. Tăng cường hợp tác với Phòng Thương mại và Công nghiệp của các nước, các tổ chức xúc tiến thương mại để tổ chức các cuộc vận động xúc tiến đầu tư sử dụng ngân sách nhà nước.
+ Nâng cấp trang thông tin website giới thiệu về đầu tư nước ngoài và được thiết kế khoa học bằng tiếng Anh, tiếng Hoa và tiếng Nhật. Biên soạn lại các tài liệu giới thiệu về đầu tư nước ngoài (guidebook, in tờ gấp giới thiệu về cơ quan quản lý đầu tư, cập nhật các thông tin về chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài). Làm đĩa VCD hoặc CD ROM để giới thiệu về môi trường đầu tư.
+ Trên cơ sở các hoạt động xúc tiến đầu tư dự kiến trong năm, các Bộ, ngành, địa phương xây dựng đề án thành lập quỹ xúc tiến đầu tư để trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt và bố trí ngân sách thường xuyên cho công tác xúc tiến đầu tư.
+ Tranh thủ sự hỗ trợ tài chính của các tổ chức quốc tế để phục vụ công tác xúc tiến đầu tư.
+ Duy trì thường xuyên các hình thức đối thoại với cộng đồng đầu tư nhằm xử lý kịp thời các khó khăn vướng mắc trong hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên hợp doanh.
Kết luận

Hy vọng trong thời gian tới với sự hỗ trợ của một hệ thống cơ chế chính sách về khuyến khích FDI bao gồm các chính sách về ưu đãi vốn và tín dụng, đất đai, phát triển thị trường, hạ tầng và nguồn nhân lực…ổn định và hoàn thiện hơn.Với quyết tâm cải cách về chính sách và thể chế, chúng ta tin tưởng rằng cơ hội đầu tư tại Việt Nam tiếp tục được mở rộng và công việc đầu tư kinh doanh tại Việt Nam sẽ ngày càng thuận lợi hơn. Hy vọng các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đến với Việt Nam để cùng hợp tác làm ăn lâu dài và khai thác những tiềm năng, thế mạnh của Việt Nam, tạo ra những sản phẩm có uy tín và chất lượng. Riêng ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn, một ngành hiện tại vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn trong nền kinh tế Việt Nam, cũng sẽ phát triển hệ thống quản lý và xúc tiến FDI đối với các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam cũng như các nước vùng lãnh thổ có tiềm năng đầu tư vào nông nghiệp…hướng tới mục tiêu đến năm 2010, ngành nông nghiệp có thể huy động 1,5 tỷ USD vốn thực hiện FDI.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét