Thứ Năm, 23 tháng 10, 2008

TÀI LIỆU MÔN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÀI CHÍNH

Mời bạn click vào link này để dowload về tham khảo: http://www1.webng.com/hanhchinh/taichinhcong.zip
Nếu khi tải về máy mà văn bản bị lỗi không đọc được, có một giải pháp giúp bạn nhận dạng mã và chuyển mã để bạn để thể xem được tài liệu bị lệch mã, đó là nhấp vào link sau đây và làm theo hướng dẫn trong đó:
http://hanhchinhvn.com/web/chuyenma
THAM KHẢO:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊNgày 3/12/2004. Cập nhật lúc 15h 38'
Tài chính - tiền tệ là lĩnh vực trọng yếu và rất nhạy cảm trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Do đó, bước sang thời kỳ đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước nhằm đẩy nhanh tiến trình cải biến và phát triển nền kinh tế nước ta thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước đã quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đổi mới căn bản quản lý nhà nước về tài chính - tiền tệ. Nhờ đó đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển theo những mục tiêu hoạch định.Tài chính - tiền tệ là lĩnh vực trọng yếu và rất nhạy cảm trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Do đó, bước sang thời kỳ đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước nhằm đẩy nhanh tiến trình cải biến và phát triển nền kinh tế nước ta thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước đã quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đổi mới căn bản quản lý nhà nước về tài chính - tiền tệ. Nhờ đó đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển theo những mục tiêu hoạch định. I 1. Tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện, nền kinh tế nước ta đã từng bước chuyển biến từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang "phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng" (Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992). Nội dung thực chất của mô hình kinh tế đó là Nhà nước và thị trường cùng tham gia điều tiết quá trình vận hành của nền kinh tế dưới tác động chủ đạo của Nhà nước và kinh tế nhà nước nhằm hướng vào những mục tiêu đã được hoạch định. Đây là mô hình kinh tế chưa có tiền lệ và chưa được thực tiễn kiểm chứng. Hơn thế nữa, chúng ta lại tiến hành xây dựng và vận dụng nó dưới áp lực phát triển rất nhanh chóng của cách mạng khoa học - công nghệ, của kinh tế tri thức, của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nên rất phức tạp, vừa có thời cơ nhưng cũng lắm thách thức. Nhà nước từ chỗ là chủ thể tập trung trong mình mọi quyền quyết định, điều tiết, chỉ huy toàn bộ các hoạt động của nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, chuyển sang chỉ giữ vai trò hoạch định chiến lược, kế hoạch, mục tiêu định hướng và quản lý, điều tiết vĩ mô sự vận hành của nền kinh tế theo chiến lược, kế hoạch, mục tiêu định hướng đó. Trong tiến trình đổi mới này, mặc dù kinh tế nhà nước vẫn giữ vị trí chủ đạo, nhưng Nhà nước đã cho phép và khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Nhà nước sử dụng cơ chế thị trường để điều chỉnh giá cả, đảm bảo cân đối các quan hệ cung - cầu trong quá trình vận hành nền kinh tế. Ngược lại, tác động của thị trường cũng làm cho vai trò của Nhà nước phải có những thay đổi cần thiết cho phù hợp với điều kiện mới. Nhà nước chủ trương giảm dần, tiến tới xóa bỏ việc điều hành trực tiếp và can thiệp quá mức vào quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thay vào đó, Nhà nước tập trung vào việc hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trình mục tiêu, xây dựng các hành lang pháp lý và thực thi các hoạt động quản lý vĩ mô. Nhất là việc nhà nước sử dụng các công cụ của chính sách tài chính - tiền tệ tác động và can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp để điều tiết nền kinh tế hoạt động theo mục tiêu và quỹ đạo hợp lý, đảm bảo đạt hiệu quả cao, tối đa hóa phúc lợi kinh tế cho toàn xã hội, phân phối thu nhập công bằng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững. 2. Trong 18 năm đổi mới vừa qua, hoạt động quản lý nhà nước về tài chính - tiền tệ đã có nhiều chuyển biến tích cực trên tất cả các mặt. Cụ thể là quan điểm đường lối của Đảng đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật và đã xây dựng, ban hành một hệ thống luật thuế hiện đại; kiện toàn và đổi mới một cách đồng bộ hệ thống tổ chức bộ máy thu thuế; Xây dựng một hệ thống pháp luật quản lý ngân sách nhà nước rành mạch rõ ràng; bổ sung và hoàn thiện, chuẩn xác hóa hệ thống chính sách chi tiêu ngân sách nhà nước. Ngay từ năm đầu của thời kỳ đổi mới, cải cách hệ thống thu ngân sách nhà nước, trọng tâm là cải cách hệ thống thuế quốc gia đã được đặt lên vị trí hàng đầu. Quá trình cải cách thuế được thực hiện qua hai giai đoạn: Giai đoạn 1 từ 1986 - 1995 và giai đoạn 2 từ 1996 - 2005. Thông qua quá trình cải cách này, một hệ thống thuế mới, hiện đại, thống nhất, ngày càng hoàn thiện đã được hình thành và phát huy tác dụng to lớn trong thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ đó, từ một hệ thống quản lý thu ngân sách nhà nước dựa trên cơ sở các quyết định rời rạc, thiếu tính hệ thống, đồng bộ và thiếu rành mạch, đã chuyển thành một hệ thống quản lý các nguồn thu ngân sách ngày càng được thể chế hóa, hợp pháp hóa, công khai hóa và sát hợp với thực tiễn. Trong đó, nghĩa vụ và trách nhiệm của các đối tượng nộp thuế được xác định rõ ràng, minh bạch. Nguồn thu ngân sách nhà nước ngày càng gia tăng một cách ổn định, Chính phủ có thể dự đoán trước được những biến động trong thu ngân sách trên cơ sở những căn cứ khoa học xác đáng để chủ động điều hòa thu, chi ngân sách nhà nước. Năm 1997, Luật ngân sách nhà nước có hiệu lực thi hành và ngày 16-12-2002 Quốc hội khóa XI đã thông qua việc sửa đổi, bổ sung một số điều Luật ngân sách nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2004, phù hợp với việc triển khai các luật thuế mới (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt) nhằm cải thiện tình hình phân cấp ngân sách, tạo thế ổn định và chủ động cho ngân sách địa phương. Luật ngân sách nhà nước và các văn bản pháp luật khác về huy động và sử dụng nguồn vốn của ngân sách nhà nước đã tạo khuôn khổ pháp luật để đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước. Việc áp dụng Luật ngân sách nhà nước đã đánh dấu bước tiến mới, nâng cao tính pháp quy trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước, trong quan hệ tài chính giữa các cấp, các ngành. Ngoài ra, Luật ngân sách nhà nước đã đề ra một số quan điểm cơ bản của Nhà nước Việt Nam trong quản lý chi tiêu ngân sách nhà nước mang tính định hướng XHCN. Những quan điểm này được thể hiện rõ trong mục tiêu và nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước. Mục tiêu của quản lý ngân sách nhà nước là "để quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của nhà nước, tăng tích lũy để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại". Nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước cũng được nêu cụ thể: "Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý gắn quyền hạn với trách nhiệm". Luật ngân sách nhà nước đã thể hiện một sự thay đổi căn bản theo tư duy mới về quan điểm xây dựng, quản lý, điều hành, thực thi ngân sách nhà nước. Các quy trình ngân sách nhà nước đã được điều chỉnh, hợp lý hóa và minh bạch hóa bằng các điều khoản pháp luật cụ thể: - Về đối tượng chịu sự điều chỉnh, quản lý của ngân sách nhà nước, luật đã xác định rõ: "Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách các đơn vị hành pháp các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân". - Về quản lý bội chi ngân sách, luật quy định: "Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách". - Về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, Luật ngân sách nhà nước đã xử lý một cách căn bản quan hệ tài chính giữa các cấp chính quyền, quan hệ ngân sách giữa Trung ương và địa phương. Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa ngân sách các cấp thực hiện theo nguyên tắc phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể. Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm các nhiệm vụ chiến lược, có quy mô toàn quốc. Còn ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong thực hiện nhiệm vụ được giao, ổn định tỷ lệ điều tiết và số cấp bổ sung từ 3 - 5 năm. Nhờ đó đã tạo thế chủ động và đảm bảo tính độc lập tương đối của ngân sách địa phương. Một mặt, mở rộng quyền tự chủ để địa phương chủ động khai thác các nguồn thu tại chỗ và chủ động bố trí chi tiêu hợp lý. Mặt khác, đảm bảo cho địa phương có đủ năng lực tài chính thực hiện các nhiệm vụ chính trị trên địa bàn. 3. Từ những phân tích và số liệu nêu trên cho thấy một thành công nổi bật nữa của quản lý nhà nước về tài chính - tiền tệ trong những năm đổi mới là đã quản lý được quan hệ thu, chi và thâm hụt ngân sách nhà nước. Trước thời kỳ đổi mới, nguồn thu của ngân sách nhà nước ta từ thuế, phí, lệ phí và toàn bộ số thu khác trong nước cộng lại, thường không đảm bảo đủ chi thường xuyên, chứ chưa nói gì tới chi đầu tư phát triển. Do đó, bội chi ngân sách với tỷ lệ cao diễn ra liên tục từ năm này đến năm khác, buộc Nhà nước phải dựa vào việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, dẫn tới "lạm phát phi mã" đã xảy ra trong suốt một thời gian dài, gây nên sự mất cân đối nghiêm trọng các chỉ số kinh tế vĩ mô. Vì thế, nền kinh tế nước ta đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng, xã hội mất lòng tin, nhiều tiêu cực về kinh tế - xã hội đã phát sinh, tác động xấu đến sản xuất và đời sống. Kể từ khi tiến hành đổi mới nền kinh tế, đặc biệt là từ những năm đầu thập niên 90 đến nay, chính phủ đã kiên quyết giữ nghiêm kỷ luật tài chính, hạn chế tiến tới xóa bỏ phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Các nguyên tắc thu, chi ngân sách lành mạnh được thiết lập, "ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thương xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn bội chi thì số bộ chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách". Theo nguyên tắc này, bội chi ngân sách nhà nước nói chung đã được kiềm chế ở mức cho phép, cao nhất là 5% GDP. Bình quân giai đoạn 1991 - 2000 bội chi ngân sách nhà nước ở vào khoảng 3,7% GDP, do Chính phủ kiên quyết cắt giảm chi tiêu nên mức thâm hụt đã giảm dần. Nếu như trong những năm 1986 - 1990, nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách chủ yếu còn dựa vào phát hành tiền (57,9%), vay nợ nước ngoài (38,5%), vay trong nước (3,7%) thì từ năm 1992 - 2000, nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước đã được xử lý bằng các giải pháp vay trong nước thông qua phát hành trái phiếu chính phủ và vay nước ngoài, chủ yếu là nguồn hỗ trợ phát triển chính thức của chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế (ODA). Từ năm 1995 đến nay nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước chủ yếu là từ nguồn vay trong nước, trung bình của các giai đoạn này chiếm khoảng 70%, còn nguồn vay nước ngoài trung bình chiếm khoảng 30%. Nhờ đó mà giảm được áp lực tăng chỉ số giá tiêu dùng và khống chế được lạm phát ở mức một con số. II 1. Quán triệt và cụ thể hóa đường lối đổi mới của Đảng do Đại hội VI đề ra: Trên lĩnh vực tiền tệ, Chính phủ và Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương và thực thi nhiều giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng lạm phát "phi mã" tồn tại trong nhiều năm. Đảng, Chính phủ và sự chuẩn bị chu đáo của hệ thống tài chính - ngân hàng cùng các bộ, ngành hữu quan nên đã thực hiện thành công "giải pháp tình thế" cắt được "cơn sốt lạm phát phi mã", đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát: kéo lạm phát từ mức 774% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1990, 17,5% năm 1991... và từ năm 1996 lại nay kiểm soát được lạm phát ở mức một con số, trong đó năm 2003 lạm phát chỉ ở mức 4%. 2. Trên cơ sở những thành công bước đầu của tiến trình đổi mới lĩnh vực tiền tệ - tín dụng, từ tháng 5-1991, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh về ngân hàng nhà nước và Pháp lệnh về các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Thực hiện 2 pháp lệnh này đã đổi mới, phân định được hệ thống ngân hàng Việt Nam thành ngân hàng 2 cấp: Ngân hàng nhà nước Việt Nam làm chức năng của ngân hàng trung ương, giữ vai trò điều hành, quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng và thanh tra, giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát và đảm bảo sự ổn định giá trị của đồng tiền Việt Nam. Còn các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng và các định chế phi ngân hàng có hoạt động tín dụng thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ. Từ thực tiễn của 5 năm triển khai thực hiện 2 pháp lệnh này cùng với những kết quả nghiên cứu khoa học trên lĩnh vực này đã đưa tới sự ra đời Luật ngân hàng nhà nước và Luật ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng, có hiệu lực từ đầu năm 1997. Tiếp đến là sự bổ sung, sửa đổi hướng tới sự hoàn thiện 2 luật này. Với những đổi mới về cơ sở pháp lý như vậy đã làm tăng thêm tính hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước. Nhờ đó, đã đưa hoạt động ngân hàng từng bước chuyển sang thời kỳ mới, tiếp cận với yêu cầu tạo lập và thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ những chuyển biến đó mà hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể trong cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế quốc dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức độ tương đối cao so với các nước trong khu vực ASEAN. Cùng với hệ thống ngân hàng đổi mới, các dịch vụ tài chính khác như các quỹ bảo hiểm, đầu tư, công ty tài chính, tài chính thuê mua... cũng dần dần được xác lập và cải cách, đi dần vào quỹ đạo chuẩn mực của thị trường tài chính - tiền tệ, góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời bước đầu có điều kiện về cơ sở vật chất và công nghệ để tiến lên hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Chính phủ và các bộ, ngành hữu quan đã cho phép một số thể chế tài chính mới bắt đầu khởi động để tiến hành tách bạch giữa cung ứng vốn tài chính dưới hình thức ưu đãi chính sách ra khỏi khu vực thị trường tài chính - tiền tệ. Bước đầu những thể chế tài chính này đã phát huy tác dụng. Tuy vậy, không phải mọi việc đều đã xong xuôi, về phương pháp và công cụ để thực hiện, giải quyết vấn đề này còn có chỗ phải tiếp tục xem xét để đi đến hoàn thiện. Những năm gần đây, nước ta đã ý thức được và có sự khởi động mạnh trong việc nâng cao công nghệ của thị trường tài chính - tiền tệ, thông qua việc thực hiện nhiều dịch vụ và công cụ mới trong huy động vốn, cung ứng vốn và cung ứng tiện ích thanh toán tiền tệ hiện đại. Nhờ đó đã góp phần phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy vậy so với thế giới thì Việt Nam mới bằng 1/20 (thế giới có tới 6.000 dịch vụ thì Việt Nam mới có 300 dịch vụ) và còn bất cập so với yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. 3. Trong hoạch định, quản lý và điều hành thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia có thành tựu nổi bật là đã động viên, phân bổ nguồn lực tài chính - tiền tệ tương đối bài bản, thông qua một hệ thống công cụ tài chính và các kênh của nó, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, hoàn thành các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong suốt những năm đổi mới, tạo được dự trữ tài chính nhà nước từ không đến có và đang tăng lên một mức độ đáng kể. Đồng thời giải quyết tốt việc trả nợ nước ngoài do những năm trước để lại. Riêng thành tựu về hoạch định quản lý và điều hành thực hiện chính sách tiền tệ trong những năm đổi mới thể hiện rõ nhất là đã chủ động sử dụng một số công cụ của chính sách tiền tệ để tác động vào hệ thống tín dụng, đưa lãi suất tín dụng chuyển dần từ lãi suất âm sang lãi suất dương vào giữa thập niên 90. Gần đây ở nước ta về căn bản đã chuyển sang giai đoạn tự do hóa lãi suất, đáp ứng được yêu cầu của phát triển nền kinh tế thị trường. Đồng thời đã quản lý và điều hành tương đối tốt chính sách tỷ giá ngoại tệ. Chuyển từ công cụ điều hành trực tiếp sang công cụ gián tiếp, điều hành thị trường tiền tệ đảm bảo cung ứng tốt phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân, kiềm chế được lạm phát, ổn định được giá trị đồng tiền (VNĐ) qua nhiều năm trong thời kỳ đổi mới. Đặc biệt trong những năm xảy ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực châu Á, nền kinh tế Việt Nam vẫn trụ vững và khắc phục được những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đó, giữ được thế ổn định tương đối. Mặt khác, thông qua quản lý, điều hành tốt việc thực thi chính sách tiền tệ đã góp phần tăng dự trữ ngoại tệ cho ngân hàng trung ương từ chỗ không đáng kể đến nay đã lên tới hơn 4 tỷ USD. III Những khiếm khuyết, bất cập trong hệ thống tài chính - tiền tệ ở nước ta hiện nay 1. Quá trình cải cách thuế ở nước ta trong những năm đổi mới đã đạt được nhiều tiến bộ, nhưng cũng còn nhiều khiếm khuyết, bất cập cả trong luật lệ lẫn trong hành thu và giám sát thu. Hệ thống thuế ở nước ta hiện nay đã được cải cách rất cơ bản, nhưng vẫn còn nhiều thứ thuế, phí trong ngân sách và nhiều thứ phí động viên ngoài ngân sách rất rườm rà, tản mạn, gây tiêu cực, thất thoát và không có tác dụng khuyến khích đầu tư của dân chúng. 2. Nợ nước ngoài mà Nhà nước vay trong điều kiện của nước ta hiện nay là cần thiết. Nhưng việc sử dụng nó có nơi, có lúc chưa đúng mục tiêu và không hiệu quả. Thậm chí không ít doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, khó có khả năng trả nợ trong tương lai, nhưng vẫn được thụ hưởng từ những khoản nợ này. Tại đây còn có khiếm khuyết trong cơ chế tài chính nội tại và nhiều sơ hở ngay trong khâu đàm phán tài chính với nước ngoài và các khâu tiếp theo ở trong nước, gây cản trở lớn, làm chậm việc giải ngân. 3. Nguồn vốn đầu tư của nhà nước bị phân bổ dàn trải, không đầu tư tập trung dứt điểm công trình; không quan tâm đúng mức đến sự phát triển cân đối ngành, vùng, lãnh thổ. Nhiều trường hợp đã không quan tâm đúng mức và phân bổ vốn không tính đến việc kết hợp giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và bảo vệ môi trường. 4. Vấn đề phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, tuy đã được luật hóa, nhưng còn nhiều lúng túng. Có cấp ngân sách mà không có khả năng tạo ra hàng hóa và dịch vụ công cộng, do đó mà sự phân cấp này trở nên hữu danh vô thực. Trong phân cấp ngân sách dù đã cải tiến, song vẫn còn tình trạng biến tướng bao cấp "xin - cho" ở một mức độ nhất định, do quyền chủ động của ngân sách địa phương vẫn chưa được rõ ràng. Vì thế, đã tạo nên tâm lý ỉ lại, triệt tiêu ý thức chủ động của một số địa phương và ngành trong hệ thống công quyền. 5. Cấu trúc thị trường tài chính - tiền tệ của nước ta còn có những khiếm khuyết, bất cập trên nhiều mặt: - Thị trường vốn dài hạn mới bước đầu hình thành và còn rất hạn hẹp, chưa phát huy được tác dụng trong nền kinh tế, do nhiều nguyên nhân từ phía nền kinh tế và trình độ phát triển của thị trường tài chính. - Thị trường tiền tệ tuy đang phát huy tác dụng nhưng đã và đang bộc lộ sự bất cập là nguồn vốn VNĐ chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư, tổng dư nợ cho vay luôn cao hơn tổng vốn huy động. Có những nghịch lý đang tồn tại trong nền kinh tế và trong bản thân các ngân hàng thương mại, khiến cho những ngân hàng này không sử dụng hết lượng ngoại tệ huy động được vào đầu tư mà phải gửi ra nước ngoài và chịu lỗ. - Các ngân hàng thương mại của nước ta quá nhỏ bé về vốn. Riêng 4 ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất ở Việt Nam thì chỉ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn có vốn pháp định cao nhất là 5.000 tỷ VNĐ. Còn ở mức trung bình như Ngân hàng công thương Việt Nam thì chỉ có 2.500 tỷ VNĐ. Đây là một bất cập rất lớn, vì với vốn tự có ở mức như hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ có tỷ lệ vốn vào khoảng từ 2,5% đến 4% so với tổng tài sản "có". Trong khi thông lệ quốc tế đòi hỏi tỷ lệ này ít nhất phải không dưới 8%. Rõ ràng là với tỷ lệ này thì nội lực hiện có của các ngân hàng thương mại Việt Nam không đảm bảo điều kiện cần và đủ để bước vào cuộc cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế mà thời gian không còn cho phép chờ đợi. 6. Trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản trị của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn ở mức lạc hậu so với khu vực và quốc tế, mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ trong những năm đổi mới vừa qua. Ngoài ra còn nhiều mặt hạn chế khác. Đó là: - Thị trường tài chính - tiền tệ nước ta thiếu nghiêm trọng vốn đầu tư và vốn tín dụng dài hạn. Do đó, đang phải sử dụng một phần vốn tín dụng ngắn hạn để cho vay và đầu tư dài hạn. Điều này hàm chứa những nguy cơ tiềm ẩn có khả năng dẫn tới khủng hoảng nợ. - Tình trạng nợ xấu, trong đó bao gồm cả nợ quá hạn không thu hồi được, đang là gánh nặng đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng nước ta. - Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng ở Việt Nam vẫn đang chịu sức ép của việc cho vay theo chỉ định ở một mức độ nhất định. Quyền chủ động của họ tuy đã được mở ra, nhưng mới chỉ là hình thức mà chưa đi vào thực chất. - Ngân hàng nhà nước, nhất là các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chưa quản lý, điều hành một cách có hiệu lực và hiệu quả việc thực thi chính sách tiền tệ. Sở dĩ như vậy là do thị trường liên ngân hàng ở nước ta vừa mới hình thành, nên chưa phát triển sôi động. Từ đó không hình thành được "lãi suất cơ bản" một cách thực chất để giúp cho ngân hàng nhà nước trung ương chỉ đạo việc thực thi tốt chính sách tiền tệ. Mặt khác, cho đến nay ngân hàng nhà nước, đặc biệt là các chi nhánh ở địa phương vẫn chưa thực sự được chủ động và độc lập tương đối trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Tổ chức của ngân hàng nhà nước còn cồng kềnh, có chi nhánh ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong khi nhu cầu thực tế và thông lệ quốc tế cho thấy không cần thiết phải như vậy. IV Từ những trình bày, phân tích trên chúng tôi có một số kiến nghị như sau: 1. Cần làm cho mọi ngành, mọi cấp nhận thức rõ trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hệ thống tài chính - tiền tệ có vai trò rất trọng yếu, là xương sống của nền kinh tế. Trong đó tài chính nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, hệ thống ngân hàng là "trung tâm thần kinh". 2. Trong chỉ đạo, quản lý, điều hành lĩnh vực tài chính - tiền tệ có liên quan trực tiếp đến toàn bộ nền kinh tế, từ vĩ mô đến vi mô, từ vùng đến lãnh thổ, từ trung ương đến các cấp chính quyền và các bộ, ngành, các tụ điểm thị trường cần phải có sự phối, kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan trong việc ban hành luật lệ, chính sách và giữa các ngành, các cấp để không xảy ra những trục trặc không đáng có trong quá trình đầu tư, làm hạn chế, triệt tiêu động lực hoặc để xảy ra tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". 3. Tiếp tục hoàn thiện các luật thuế theo phương châm vừa hiện đại vừa gọn nhẹ, có tác dụng khuyến khích thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng được thu ngân sách nhà nước, và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời tiếp tục hoàn thiện việc phân cấp ngân sách, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong đó giao quyền tự chủ cao hơn cho các cấp chính quyền địa phương để nâng cao tính tự chủ của địa phương, xóa bỏ tâm lý ỉ lại và sự bao cấp tràn lan. 4. Đồng bộ hóa các luật lệ liên quan đến môi trường đầu tư của hệ thống tài chính - tiền tệ. Tạo môi trường đầu tư lành mạnh cho hệ thống tài chính - tiền tệ Việt Nam. 5. Đồng thời với việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, cần phải cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước theo hướng Nhà nước nắm quyền chi phối 51% vốn và cấu trúc lại hệ thống ngân hàng theo hướng hiện đại. Chỉ với phương sách này mới nâng cao được năng lực của hệ thống ngân hàng Việt Nam. 6. Cần đẩy mạnh phát triển và hoàn thiện "thị trường mở" theo phương châm hiện đại hóa. Trên cơ sở đó mà thực thi chức năng quản lý, điều tiết thị trường tài chính - tiền tệ bằng cách "bơm" tiền vào hay "hút" tiền ra khỏi lĩnh vực lưu thông theo mục tiêu của chính sách tiền tệ và tín hiệu của thị trường một cách hài hòa, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cũng trên cơ sở này mà góp phần kiềm soát lạm phát tiền tệ ở mức hợp lý có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. 7. Tiếp tục làm trong sạch và lành mạnh hóa tình trạng tài chính của các ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên cơ sở tiếp tục hoàn thành dứt điểm việc xử lý nợ xấu còn tồn đọng. 8. Cần thực thi một hệ thống giải pháp thiết thực, đồng bộ để tạo niềm tin của dân chúng đối với VNĐ. Bởi lẽ đã một thập niên VNĐ về căn bản giữ được giá trị ổn định, song người dân vẫn chưa yên tâm với nó, nên ít dùng nó để đầu tư vốn dài hạn. Cũng vì lý do này nên tình trạng đô la hóa vẫn tồn tại và tiếp diễn trong nền kinh tế nước ta.
Theo Thông tin những vấn đề lý luận số 19 tháng 10/2004 của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét