Thứ Năm, 7 tháng 5, 2009

QLNN VỀ VĂN HÓA - GIÁO DỤC - Y TẾ

Văn hoá:
Câu1: Tại sao nói văn hoá là động lực, là mục tiêu phát triển kinh tế xã hội là công cụ hoàn thiện con người và xã hội.
*Văn hoá là động lực phát triển kinh tế xã hội:
-Trong triết học duy vật biện chứng nêu ra sự đấu tranh giữa 2 mặt đối lập gây nên sự phát triển. Vận dụng nguyên lý này vào vấn đề văn hoá, xã hội thì đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy phát triển xã hội. Trong nghị quyết 4 của ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá 7 nêu ra: " Văn hoá là mục tiêu vươn tới của kinh tế xã hội, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ".
-Suy ngẫm về vấn đề triết học cho ta thấy đấu tranh giai cấp là động lực của phát triển chính trị hay là động lực để thay đổi xã hội nhưng để xây dựng 1 xã hội thì phải sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần hay là nên văn hoá phù hợp với xã hội đó.
-Khi tạo được 1 xã hội mới phải phát triển xã hội đó lên công bằng, ấm no, giầu mạnh cũng có nghĩ là chăm lo đến phát triển văn hoá, làm cho văn hoá thường xuyên là mục tiêu vươn tới vừa là động lực thúc đẩy phát triển xã hội. Như thế có nghĩa là nhìn phát triển văn hoá thì phải nhìn về khía cạnhvận động văn hoá.
-Luận điểm “ Văn hoá vừa là động lực vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế xã hội ".được chứng minh qua các thời kỳ lịch sử như sau:
+E.B.Taylor nhà văn hoá học nổi tiếng trong cuốn:”Nhgiên cứu lịch sử cổ đại loại người” ong đã cho rằng toàn bộ xã hội loại người từ dã man đến văn minh là sự phát triển văn hoá. Và trong cuốn sách " Văn hoá nguyên thuỷ" ông vẫn tiếp tục khẳng định văn hoá là động lực, là xu hướng chính trong lịch sử phát triển của loại nười.
+Nhìn vào lịch sử cổ đại Trung Hoa, ta thấy nơi đây sớm xuất hiện 1 cách nôivăn minh của nhân loại, với rất nhiều thành tựu văn hoá vĩ đại như tư tưởng triết học pháp gia, đạo gia, Nho gia… văn hoá khoa học như tìm ra la bàn, Thuốc súng in ẩn. Tuy vậy đất nước này lại không thể phát triển lên được mãi đến cuối thế kỷ 19 vẫn là 1 quốc gia thuộc địa của nửa phong kiến, như vậy lịch sử vẫn tiếp diễn nhưng xã hội không vận động vì thiếu động lực là văn hoá, và văn hoá không trở thành mục tiêu phát của phát triển kinh tế xã hội, nghĩa là văn hoá không vận hành, nó trì trệ hàng nghìn năm với nền văn hoá nông nghiệp lạc hậu.
+Lại nhìn vào lịch sử cổ đại Việt Nam cũng có thời văn hoá Đại Việt được phát triển lên đỉnh cao, đã có manh nha nền kinh tế hàng hoá ( thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến). Nhưng nó lại bị tư tưởng bảo thủ của nho giáo - hệ tư tưởng của tầng lớp phong kiến thống trị ức chế, trong( nông ức thương) đã làm cho xã hội không phát triển lên được và văn hoá lâm vào khủng hoảng. Tiếp đó chiến tranh Trịnh-Mạc diễn ra chia cắt 2 miền văn hoá làm cho xã hội không vận động, văn hoá không vận hành được, ở Việt Nam lúc bấy giờ chỉ tồn tại văn hoá “Trĩnh” mà không có văn hoá “động” khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam thì văn hoá tư bản chủ nghĩa đưa tuyền bá, nhưng đây lf không phải văn hoá nội tại phát triển lên mà là do văn hoá ngoại nhập áp đặt nên văn hoá Việt Nam lại cũng lâm vào bế tắc. Và chỉ đến khi Nguyễn Ái Quốc tìm ra chân lý: "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội " thì văn hoá Việt Nam mới tìm được lối ra và đến năm 1945: thì thiết chế văn hoá mới được thiết lập ở nước ta, nhưng chúng ta còn phải mất 30 năm kháng chiến mới đưa văn hoá Việt Nam vận hành đổi mới như ngày nay.
Như vậy chúng ta có thể 1 lần nữa khẳng định lại: văn hoá là động lực và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội vì:
-Văn hoá cho chúng ta cách nhìn là sự chuyển biến của xã hội là sự chuyển biến về văn hoá.
-Văn hoá cho chúng ta cách nhìn lịch sử 1 cách biện chứng và chính xác hơn (đây là mục tiêu phát triển kinh tế xã hội ) và có cách nhìn khác với lịch sử.
-Văn hoá lại khẳng định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội.
Văn hoá công cụ hoàn thiện con người và xã hội là vì xã hội. Thông qua các chức năng của mình đã tác động lại với con người với rất nhiều mặt tích cực làm con người ngày càng hoàn thiện hơn, cụ thể:
-Con người nhận thức về vũ trụ, trời đất, nghĩa là văn hoá nhận thức, ở đây văn hoá đã trang bị cho con người những chi thức cần thiết để làm chủ thiên nhiên, xã hội và bản thân. Hơn nữa bằng các hoạt động văn hoá giúp con người tự sáng tạo, nâng cao trình độ nhận thức cũng là tự hoàn thiện mình.
-Ở chức năng giáo dục của văn hoá, thì thông qua các hoạt động sản phẩm tác động 1 cách có hệ thống lên tinh thần và thể chất con người làm cho con người có được phẩm chất và năng lực như xã hội yêu cầu. Mặt khác văn hoá tạo thành những giá trị chuẩn mực để con người học tập, nhờ đó văn hoá đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách con người.
-Ở chức năng thẩm mỹ của văn hoá, nó hướng con người hoàn thiện ở góc độ cần có lối ứng xử xã hội thích hợp, ngăn ngừa những hành vi phi văn hoá để tạo lên lối ứng xử văn hoá phù hợp với tiến bộ xã hội.
-Văn hoá còn hoàn thiện con người ở chức năng giải trí của nó nghĩa là khi con người hưởng thụ nền văn hoá nghiêm túc thì giúp họ lấy được tinh thần, họ được nghỉ ngơi để có thể bắt đầu công việc mới, giúp con người phát triển toàn diện và sáng tạo hơn lao động có hiệu quả hơn.
Câu2: Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về văn hoá cần phải có biện pháp gì?Tạo sao.
Ngày chúng ta phải đặt ra các biện pháp cần thiết để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về văn hoá là vì tình trạng văn hoá Việt Nam có rất nhiều vấn đề đáng quan tâm, thậm trí đã có những điểm đi lệnh hướng so với bản sắc văn hoá truyền thống. Do đó cần phải chấn chỉnh lại việc quản lý nhà nước về văn hoá. Và để đề ra các biện pháp chấn chỉnh tình hình này trước hết chúng ta đi vào xem xét thực trạng văn hoá trong thời gian qua.
Do nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển kinh tế thị trường nên có rất nhiều tác động từ mặt trái của nó tới xã hội mà đặc biệt là tới nền văn hoá của nước ta, mà nhà nước lại chưa đủ khả năng hay chưa qua tâm đúng mức tới quản lý văn hoá sự buông lỏng quản lý văn hoá ở nước ta có rất nhiều, nhưng tại bài viết này chúng ta xin đề cập tới vài thực trạng như sau:
-Thực trạng về quản lý nhà nước về văn hoá: trong thời kỳ quá độ của nước ta, cùng với việc phát triển đất nước, thì ngành văn hoá cũng có nhiều phát triển, nhưng cũng có mặt chưa được quan tâm đúng mức như việc để vi phạm bản quyền tác giả diễn ra thường xuyên và phức tạp, nhưng ngành văn hoá chưa có biện pháp ngăn chặn và bảo vệ quyền lợi ích chính đáng cho các tác giả chân chính, hàng ngày quyền lợi ích của họ vẫn bị vi phạm. Một bất cập nữa tồn tại trong khu vực xuất bản sách báo cũng có việc vi phạm bản quyền nghiêm trọng đó là việc các nhà xuất bản tự ý cho xuất bản sách mà nhà xuất bản khác đã mua bản quyền trong lĩnh vực biểu diễn thì vẫn diễn ra các chương trình chưa có chất lượng cao, còn tồn tại nhiều chương trình, cách thức biểu diễn không phù hợp với văn hoá truyền thống. Và đặc biệt ngành văn hoá hoàn toàn chưa quản lý được lĩnh vực này nên để cho lĩnh vực biểu diễn phát triển quá tự do.
-Cùng việc hội nhập kinh tế thì văn hoá nước nhà cũng tiếp nhận được nhiều nét mới từ nước ngoài để làm phong phú trên bản sắc văn hoá truyền thống, nhưng bên cạnh đó là các luồng văn hoá độc hại, phản động cũng được trồn vào Việt Nam gây hại cho lớp trẻ và làm nên hiện tượng xã hội xấu, nhưng các ngành chức năng tuy vẫn ngăn chặn nhưng chưa hiệu quả mà các luồng văn hoá vẫn tiếp tục tồn tại trên thị trường văn hoá của Việt Nam đặc biệt là hàng đĩa in lậu, có nội dung đố truỵ, phản động.
-Không chỉ có thế việc bảo vệ văn hoá truyền thống của nước ta cũng kém, như các tình trạng "chẩy máu cổ vật"hàng ngày vẫn diễn ra việc các cổ vật trong đình chùa miếu mạo của ta bị mất cắp và đem đi bán cho nước ngoài nhưng nhà nước không có biện pháp hoặc ngăn chặn nhưng không hiệu quả, ngoài ra người dân ta cũng không còn chú trọng đến văn hóa truyền thống gây nên hiện tượng mai một nhiều nét đẹp của nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Như vậy từ thực trạng trên cho thấy cần thiết phải nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về văn hoá, cụ thể là cần phải làm các công việc sau:
+Đẩy mạnh xây dựng thể chế vì để quản lý tốt các hoạt động văn hoá trong quá trình xã hội hoá văn hoá thì phải chú trọng việc xây dựng thể chế văn hoá, trong khi xây dựng thể chế văn hoá thì cần phải quản lý việc xây dựng và phát triển văn hoá bằng pháp luật đó là nhà nước phải xây dựng hệ thống pháp luật văn hoá trên cả 2 bình diện quốc tế vì vấn đề văn hoá liên quan đến nhiều quốc gia và nó ràng buộc nhau vì sự phát triển chung của nhân loại, đặc biệtvn cần đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia về vấn đề bảo vệ quyền tác giả, bản quyền và sở hữu trí tuệ. Trên bình diện quốc gia thì ngoài những văn bản pháp luật về văn hoá đang hiện thành thì nhà nước cần phải bổ sung những văn bản còn thiếu hoàn thiện lại cả hệ thống pháp luật để nâng cao hiệu quả quản lý bằng pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho văn hoá phát triển, và thực hiện xã hội hoá văn hoá trong nền kinh tế thị trường.
Trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hoá thì nhà nước ta cần chú trong như bản quyền tác giả, cấp giấy phép cho hoạt động văn hoá nghệ thuật, nghiêm trị các trường hợp vi phạm pháp luật về văn hoá, xây dựng các cơ chế pháp luật cho các hoạt động của văn hoá để từ đó người hoạt động văn hoá dễ dàng hoạt động. Đặc biệt là trong quản lý nhất thiết phải sử dụng pháp luật để góp phần tích cực vào việc lập lại trật tự kỷ cương trong tình hình văn hoá xã hội hiện nay.
+Song song với việc đẩy mạnh quản lý văn hoá bằng pháp luật thì nhà nước phải quản lý văn hoá bằng quy ước vì đây là 1 thể chế mến phù hợp với việc quản lý văn hoá xã hội.Và việc quản lý bằng quy chế cần tập trung mạnh vào tuyên tuyến thuyết phục người dân giữ gìn bản sắc văn hoá tránh hiện tượng lai căng, du nhập văn hoá ngoại lai làm băng hoạivăn hoá truyền thống đặc biệt trong việc lễ hội, cưới, tang..
Còn các chủ trương như xây dựng đời sống văn hoá, gia đình, làng, xóm phải thực sự chứ không hình thức.
+Quản lý văn hoá bằng các chính sách văn hoá: muốn quản lý văn hoá bằng các chí nh sách này thì bản thân chính sách phải thực sự khoa học và hiệu quả thì nó mới điều hoà được các vấn văn hoá. Nói ở 1 khía cạnh khác thì quản lý bằng chính sách cũng là bằng pháp luật vì các chính sách này đều thể hiện dưới các văn bản quy phạm pháp luật.
Hơn nữa để quản lý bằng chính sách có hiệu quả thì cần có sự tăng cường hợp tác với các cơ quan công quyền ở mọi cấp, đặc biệt là cấp cơ sở, các tổ chức tư nhân, xã hội để cùng nhu thực hiện thành công các chương trình dự án.
+Quản lý văn hoá thông qua đầu tư tài chính, đây là 1 biện pháp quản lý hiệu quả cao, vì đầu tư cho văn hoá sẽ mang lại lợi nhuận cho nhà nước và cho cả nhân dân. Nhưng hiện nay việc đầu tư này cũng tồn tại nhiều bất cập do đó phải quản lý chặt chẽ các nguồn tài chính đầu tư cho xã hội, thẩm định kỹ càng các dự án văn hoá cần đầu tư tăng cường kiểm tra các hoạt động tài chính của ngành văn hoá.
+Để các biện pháp trên được thực hiện có hiệu quả thì nhà nước phải tăng cường thanh tra, kiểm tra các hoạt động văn hoá để đảm bảo các hoạt động này theo đúng khuôn khổ.
Câu3: Yêu cầu cơ bản đối với quản lý văn hoá là gì? Tạo sao quản lý văn hoá lại đảm bảo yêu cầu đó, phân tích, nêu ví dụ minh hoạ.
Văn hoá là 1 lĩnh vực hết sức nhậy cảm như vấn đề dân tộc và tôn giáo do vậy trong quá trình quản lý nhà nước về văn hoá phải có quy tắc riêng biệt và đặc biệt là phải có yêu cầu để đảm bảo việc quản lý văn hoá có thể thực hiện 1 cách hiệu quả:
-Qản lý nhà nước về văn hoá và công tác tư tưởng gắn liền với quyền lực nhà nước và hơn bất cứ lĩnh vực nào thì văn hoá càng cần có sự quản lý và lãnh đạo của nhà nước, quốc gia nào cũng có cơ cấu quản lý nhà nước về các hoạt động văn hoá, đặt ra yêu cầu này là vì: trước hết là do sự cần thiết phải quản lý nhà nước về văn hoá, nhà nước có nhiệm vụ quản lý và lãnh đạo tất cả các ngành, lĩnh vực trong đó không loại trừ lĩnh vực văn hoá, hơn nữa nhà nước tham gia vào quản lý văn hoá là nhằm làm cho văn hoá ngày 1 phát triển đúng hướng, đúng với lòng mong muốn của nhân dân, và bảo vệ nền văn hoá dân tộc không bị mai một hoặc bị pha trộn hỗn tạp. Ta có thể thấy rõ yêu cầu này là cần thiết qua ví dụ sau: đó là bản quyền tác giả nếu không có sự quản lý của nhà nước thì quyền lợi của các tác giả sẽ không được tồn trọng các tác phẩm của họ sẽ bị sử dụng bừa bãi.
-Tăng cường trách nhiệm của nhà nước trong việc trực tiếp quản lý các công trình văn hoá và những cơ sở phục vụ nhucầu văn hoá của người dân. Đảm bảo cho văn hoá có cơ sở vật chất vững chắc, đồng thời là trách nhiệm của cả cộng đồng trong sự nghiệp phát triển văn hoá xã hội hoá các hoạt động văn hoá, văn nghệ, đây là 1 yêu cầu quan trọng vì nước ta có nền kinh tế chưa phát triển vì vậy nền văn hoá chưa tự thân hoạt động mà nó vẫn dựa vào nguồn tài chính từ nhà nước để hoạt động như các lĩnh vực truyền hình, điển ảnh… Mặt khác tăng cường trách nhiệm của nhà nước trong việc quản lý các công trình để bảo vệ các công trình này tránh tình trạng "Cha dung không ai khóc" như việc bảo tồn và duy trì các đền chua miếu mạo là các di tích lịch sử và nghệ thuật truyền thống hay như các môn nghệ thuật trưyền thống như múa rối nước hiện nay đang dần mai một nếu Nhà nước không đứng ra sưu tầm và bảo tồn thì chỉ ít lâu nữa nó thất lạc và mai một đi, và Việt Nam mất đi một nét đẹp văn hoá.
-Văn hoá thuộc nhân dân, mọi người đều có quyền hưởng thụ và có nghĩa vụ đóng góp bảo vệ nền văn hoá dân tộc. Trong việc quản lý văn hoá ngoài nhà nước ra cần khuyến khích các hình thức tự quản của nhân dân trong việc vệ và phát triển văn hoá, bảo đảm tính đa dạng của văn hoá và đáp ứng nhu cầu của người dân các đoàn thể quần chúng, hiệp hội nghề nghiệp có vai trò to lớn trong việc bảo vệ và phát triển văn hoá.
+Văn hoá thuộc nhân dân là vì chính nhân dân là những người từng bước xây dựng nền văn hoá như ngày nay, qua nhiều thời kỳ họ đúc kết lại những nét đẹp văn hoá truyền thống và lưu giữ lại cho đời sau, chính vì thế mà họ cũng là người có quyền hưởng thụ sản phẩm do chính mình làm ra, nhưng chính họ cũng phải tích cực bảo vệ và tiếp tục phát huy nó để nó ngày càng giầu đệp hơn.
+Ngày nay việc bảo vệ văn hoá không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước mà nó là nhiệm vụ của tất cả mọi người vì văn hoá rất đa dạng và phong phú, nó tồn tại ở khắp mọi nơi xung quanh cuộc sống của con người vì vậy người dân là người bảo vệ hữu hiệu cho nền văn hoá của chính mình.
+Trong thực tế thì người dân thực hiện các hương ước, tham gia xây dựng làng, xóm, gia đình văn hoá là đang phát triển và bảo vệ văn hoá.
-Văn hoá Việt Nam là văn hoá đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em và cùng với bằng ấy nền văn hoá đã tạo nên 1 nền văn hoá tổng hợp đa dạng của văn hoá Việt Nam. Chính vì sự đa dạng này nên ngành văn hoá nước ta cần phải đặc biệt chú ý đến các biện pháp quản lý riêng biệt cho phù hợp với nền văn hoá của từng dân tộc thiểu số, sao cho vẫn giữ gìn được bản sắc văn hoá riêng trong các văn hoá chung của cả dân tộc.
-Kết hợp hiệu quả kinh tế và hiệu quả chính trị trong hoạt động văn hoá, đây là yêu cầu cần thiết trước hết là hiệu quả kinh tế cần kết hợp với văn hoá là vì ngành văn hoá tuy được nhà nước cung cấp ngân sách nhưng bản thân ngân sách chưa đủ để phát triển mà ngành văn hoá phải tự thân vận động để tạo nên nguồn lực hoạt động và mang lại lợi nhuận cho nhà nước, ta có thể thấy hiệu quả kinh tế thông qua việc phát triển du lịch tại các làng nghề truyền thống, kết hợp các nghệ thuật cổ như hát quan họ múa rối, nhã nhạc cung đình Huế với du lịch sẽ mang lại hiệu quả cao, tổ chức lễ hội để thu hút du khách.
-Còn hiệu quả chính trị, thì nhà nước ta với văn hoá là 1 mặt trận quan trọng trong công tác dân vận, thông qua văn hoá chúng ta có thể lồng ghép các chủ trương đường lối của nhà nước để tuyên truyền đến dân nhân. Như thông qua các vở kịch, cuốn sách bộ phim để truyền tải tư tưởng của nhà nước.
Như vậy để quản lý nhà nước về văn hoá có hiệu lực và hiệu quả thì nhất thiết phải đảm bảo đồng bộ các yêu cầu trên.
Câu4: Tạo sao cho rằng trong thời đại ngày nay văn hoá và phát triển ngày càng có mối quan hệ khăng khít và không thể tách rời.
Văn hoá và phát triển là 2 khái niệm trừu tượng nhưng chúng lại có mối quan hệ nhăng khít và không thể tách rời, văn hoá vừa là động lực vừa là mục tiêu phát triển nói chung, khi xã hội phát triển thì kéo theo đó là văn hoá phát triển theo để đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển, như vậy 2 khái niệm này có mối quan hệ biện chứng với nhau. Vậy qua sự phân tích dưới đây sẽ lý giải mối quan hệ giữa 2 khái niệm này:
*Ở dẫn chứng đầu tiên chúng tôi tạm coi văn hoá là tinh thần còn sự phát triển là vật chất. Nếu xẩy ra sự mất cân đối giữa vật chất và tinh thần hay giữa sự phát triển và văn hoá bao giờ cũng tạo ra sự khập khiểng, hụt hẫng trong tâm trí con người trong xã hội. Thực tế đã chứng minh có những quốc gia giầu có, đời sống khoa học phát triển cao nhưng lại đẻ ra các thâm cảnh nghèo khổ, thất nghiệp, văn hoá, đạo đức bị suy đối đó là vì phát triển xã hội nhưng không tương xứng với phát triển văn hoá, phát triển không đi với phát triển văn hoá.
*Ở luận điểm thứ 2 chúng tôi đề cập tới tác động của phát triển đến văn hoá, đó là với các tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã cung cấp những phương tiện hiện đại cho văn hoá nghệ thuật phát triển tạo điều kiện cho giá trị tinh thần đời sống, tạo được tác dụng là thúc đẩy nâng cao dân trí, cải thiện đời sống tinh thần cho người dân, kích thích trí sáng tạo cho nhân dân để họ tiếp tục nâng cao sự phát triển hiện có của xã hội có nghĩa là sự sáng tạo hay phát triển đều được xây dựng trên cơ sở văn hoá tinh thần.
*Ở luận điểm thứ 3 chúng tôi cho rằng văn hoá và phát triển có mối quan hệ khăng khít và không thể tách rời thì ở 1 khía cạnh nào đó có thể văn hoá đồng nghĩa với phát triển nghĩa là trong phát triển hàm chứa những tinh hoa văn hoá, con trong văn hoá là sự sngs tạo hay là tinh thần nhân văn của các thế hệ.
*Văn hoá và phát triển có mối quan hệ khăng khít còn là vì văn hoá là nền tảng của sự phát triển. Nghĩa là sự phát triển của đất nước phải nẩy mầm từ chính nền văn hoá truyền thống của dân tộc, thể hiện được bản sắc dân tộc, chứ không thể phát triển bằng văn hoá ngược lại như vậy có nghĩa là tha hoá về văn hoá. Ngày nay nếu sự phát triển trên cơ sở nền tảng của văn hoá truyền thống thì văn hoá sẽ trở thành trung tâm của sự phát triển nghĩa là phát triển kinh tế xã hội là nhằm mục tiêu phát triển văn hoá và đỏi mới văn hoá. Trong thực tế hiện nay chúng ta phải học tập người Nhật Bản cách đây 1 trăm năm họ đứng vững trên nền tảng là giá trị văn hoá truyền thống của mình để tiếp thu công nghệ của phương Tây nhằm đổi mới và phát triển đất nước.
Như vậy ta có thể thấy được rằng giữa văn hoá và phát triển là có sự khăng khít và không thể tách rời.
Câu5: Những nội dung cỏ bản của quản lý nhà nước về văn hoá? Phân tích các nội dung đó.
*Xây dựng thể chế: Để quản lý tốt hoạt động văn hoá trong quá trình xã hội hoá văn hoá thì nhà nước cần chú trọng xây dựng thể chế văn hoá. Trong nội dung xây dựng thể chế thì nhà nước chú trọng tới việc xây dựng thể chế mềm và thể chế cứng.
-Thể chế cứng: nghĩa là nhà nước quản lý văn hoá bằng pháp luật. Trong lĩnh vực này lại bao gồm 2 nội dung nhỏ đó là quản lý trên bình diện quốc tế thì có đề cập tới những bộ luật, điều luật có tính quốc tế về văn hoá mà Việt Nam tham gia đó là công ước quốc tế về quyền tác giả, luật bảo hộ sản xuất bằng đĩa, và Việt Nam cũng cần tích cực tham gia vào các điều ước này để tạo thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế về văn hoá.
+Trên bình diện quốc gia, hầu hết các quốc gia đều có những điều luật về văn hoá, ở Việt Nam cũng vậy sự quản lý nhà nước về văn hoá thể hiện ngay trong Hiến Pháp-văn bản pháp luật cao nhất của nước ta, và hàng loạt các đạo luật riêng đối với 1 số hoạt động văn hoá như luật về tổ chức bộ máy quản lý văn hoá, luật bảo vệ di sản văn hoá, bảo vệ quyền tác giả, luật xuất bản, báo chí… tóm lại nội dung quản lý nhà nước về văn hoá của Việt Nam được tóm lại ở 12 lĩnh vực cơ bản và các văn bản này đã tạo 1 hành lang pháp lý cho hoạt động văn hoá khi thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hoá trong nền kinh tế thị trường.
+Trong quản lý nhà nước về văn hoá, cũng đặt ra những vùng cấm trong hoật động văn hoá như nghiêm cấm các hoạt động về chính trị làm tiết lộ bí mật quốc gia, thất thoát di sản văn hoá quốc gia, xâm phạm quyền tác giả, đặc biệt là nghiêm cấm làm băng hoạiđạo đức phá hoại nhân phẩm.
-Thể chế mềm là quản lý nhà nước về văn hoá bằng quy ước vì hoạt động văn hoá là loại hoạt động dân sự, gắn với xã hội nên áp dụng thể chế này sẽ có hiệu quả hơn.
+Ngày nay Đảng và nhà nước ta đã đề ra 1 số nội dung quản lý văn hoá đó là việc xây dựng đời sống văn hoá ở cở sở phù hợp với từng điều kiện của địa phương, và từ đó chúng ta chú trọng xây dựng quy ước tập trung vào 1 số lĩnh vực sau:
#thông tin tuyên truyền, các cầu lạc bộ.
#Thư viện, sách báo, giải trí, thể thao.
#Văn nghệ quần chúng.
#Xây dựng gia đình văn hoá và nếp sống văn hoá.
#Bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, giáo dục truyền thống.
+Ngoài ra nhà nước ta còn xây dựng các quy ước về nếp sống như lễ hội, tết, cưới xin, ma chay, cũng như các quy ước về gia đình văn hoá, làng văn hoá. Nhà nước ta làm như vậy là để tăng cường vai trò của cộng đồng trong việc quản lý các hoạt động văn hoá.
*Hệ thống các chính sách về văn hoá: đây là 1 nội dung có ý nghĩa to lớn trong điều kiện nề kinh tế thị trường nhằm điều chỉnh những bất bình đẳng trong văn hoá do thị trường tạo ra, khích lệ hỗ trợ cho những xu hướng văn hoá vì chính sách văn hoá là sự thể chế hoá các quan điểm và phương hướng phát triển văn hoá, nhằm tác động lên các nhóm cộng đồng văn hoá, cộng đồng chính trị và cộng đồng dân cư để giải quyết các vấn để phát sinh trong quá trình văn hoá.
+Hầu hết các chính sách văn hoá của nhà nước đều thể hiện dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan pháp luật và nhà nước.
+Khi thực hiện chính sách văn hoá cần phải có sự tăng cường hợp tác với các cơ quan công quyền ở mọi cấp đặc biệt là ở địa phương vì đặc biệt phải đáp ứng được mối quan tâm của 3 nhóm cộng đồng.
+Hiện nay các chính sách văn hoá của chính phủ Việt Nam đều tập trung vào 1 số các mục tiêu cơ bản như sau:
#Mục tiêu về sự phát triển văn hoá ở cơ sở.
#Hoạt động sáng tạo văn hoá, nghiên cứu sưu tầm, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống.
#Mục tiêu về phát triển đội ngũ cán bộ văn hoá, về sự quản lý và phân cấp quản lý…
*Đầu tư tài chính cho văn hoá: Đây là 1 nội dung cần thiết vì hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều có khoản đầu tư này để xây dựng 1 nền văn hoá cho cả đất nước. Ở nước ta cơ cấu đầu tư cho văn hoá bao gồm phần ngân sách cho giáo dục, khoa học, nghệ thuật và những công việc văn hoá, phát thành truyền hinh báo chí, thể dục thể thao…
-Nguồn đầu tư hiện nay cho văn hoá chủ yếu là lấy từ ngân sách nhà nước do bộ văn hoá thông tin quản lý ở cấp vĩ mô, còn sở ch quản lý ở các địa phương. Ngoài ra còn có các nguồn đầu tư từ các tổ chức và cá nhân.
-Khi đầu tư ngân sách cho văn hoá thì chính phủ cũng áp dụng những nguồn tài chính trong đầu từ để đạt được mục tiêu quản lý nhà nước về văn hoá.
Câu6: Thách thức đối với quản lý nhà nước về văn hoá là gì? Giải pháp cơ bản để khắc phục.
Trong cơ chế thị trường thì những thách thức đặt ra với việc quản lý của hầu hết các ngành dĩ nhiên là không loại trừ ngành văn hoá, bởi đây là ngành khá nhậy cảm, là 1 nhóm đối tượng quản lý phức tạp do đó nó càng nẩy sinh nhiều các tách thức cho các nhà quản lý. Và để đạt được mục tiều quản lý về văn hoá, thì chúng ta cần vượt qua các thách thức cơ bản như sau:
*Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập, đây là 1 xu thế tất yếu của thời đại ngày nay, chúng ta không chỉ hội nhập về kinh tế mà còn hội nhập về văn hoá. Những thách thức to lớn đặt ra cho các nhà quản lý văn hoá là làm sao để hội nhập thành công nhưng lại không làm mất đi bản sắc văn hoá dân tộc. Hiện nay không chỉ là sự lo lắng mà nó đã trở thành sự thật ở 1 số khía cạnh như nếp sống của 1 bộ phận thanh niên đua đòi lai căng…
-Về xu thế toàn cầu hoá thì nó diễn ra ngày càng mạnh mẽ, tạo điều kiện để mọi quốc gia giao lưu và mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá cũng như quảng bá nền văn hoá của quốc gia mình cho thế giới biết đến, nhưng toàn cầu hoá cũng mang lại cho xã hội nhiều mặt trái như tình trạng chẩy máu cổ vật ở Việt Nam, 1 số người bị tha hoá đạo đức, nếp sống do tác động xấu từ các luồng văn hoá độc hai…
Vì vậy để đối phó với các thách thức này thì các nhà quản lý văn hoá cần đẩy mạnh các biện pháp quản lý có hiệu quả để bảo vệ nền văn hoá truyền thống và tạo điều kiện tiếp thu có chọn lọc những nét văn hoá tiến bộ trên thế giới.
*Đặc tính thương mại trong văn hoá, đây cũng đang là 1 thách thức khó khăn, đánh rằng văn hoá ở 1 khía cạnh nào đó khi mang tính thương mại thì sẽ mang lại lợi nhuận cho nhà nước như các hoạt động du lịch văn hoá, sản xuất các đồ mỹ nghệ xuất khẩu, nhưng này nay cùng với nền kinh tế thị trường thì 1 bộ phận văn hoá đã bị thương mại hoá quá mức như hiện tượng xây dựng các đền chùa giả mạo ở chùa Hương để lừa khách du lịch là 1 kiểu thương mại hoá văn hoá quá mức, nó làm cho hình ảnh văn hoá tốt đẹp của lễ hội chùa Hương bị giảm sút.
-Và 1 điểm nữa đang làm đau đầu các nhà quản lý văn hoá đó là việc vi phạm bản quyền tác giả, in lậu băng đĩa và các hình thức thương mại hoá văn hoá trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn; điều này làm hạn chế chất lượng của các sản phẩm văn hoá ảnh hưởng đến quyền lợi ích của người thụ hưởng văn hoá.
*Khoảng cách về đời sống văn hoá giữa các vùng miền, đây là 1 thách thức to lớn đặt ra trong việc quản lý hiện nay, đó là việc rút ngắn sự cách biệt này, nhưng nhiệm vụ này thật hết sức khó khăn do ở Việt Nam khoảng cách này là rất lớn, đặc biệt là các khu vực thành thị với nông thôn và miền núi hay giữa các dân tộc với nhau. Ở Việt Nam 1 só vùng còn có người mù chữ, họ không được tiếp cận với thông tin từ truyền hình hay báo chí, đài phát thanh. Hay ở các vùng dân tộc còn tồn tại rất nhiều những tập tục văn hoá lạc hậu, ấu trĩ, có hại cho nền văn hoá nói riêng và cho đất nước nói chung như thời gian du canh du cư của đồng bào dân tộc ít người.
-Mặc dù vậy nhưng hiện nay ngành văn hoá vẫn chưa thể giải quyết được hình thức này do còn nhiều khó khăn về kinh phí, cơ sở vật chất. Do vậy nhà nước ta cần chú trọng đầu tư để giải quyết vẫn đề này sao cho hợp lý.
*Thiếu thông tin dữ liệu để xây dựng chính sách. Chính sách văn hoá là 1 biện pháp quan trọng để quản lý nhà nước về văn hoá, nhưng hiện nay các chính sách chưa nhiều, mà cũng lại chưa có hiệu quả do đó thách thức đạt ra là làm thế nào để có 1chính sách tốt để quản lý văn hoá.
-Trong thực tế ngành văn hoá thông tin nước ta chưa làm tốt công tác thu thập thông tin văn hoá, đôi khi còn có nhiều lĩnh vực chưa nắm vững do đó khi có thể đề ra biện pháp chính sách đúng đắn cho quản lý.
*Mỗi quan hệ văn hoá với thực tiễn còn chưa sâu sắc có những vấn đề văn hoá chỉ là lý luận suông chưa thực sự vào thực tiễn cuộc sống, hay ngược lại cũng có vấn đề đã xẩy ra trong thực tế nhưng lại không được nghiên cứu để giải quyết.
*Trình độ đội ngũ cán bộ quản lý văn hoá cũng là 1 thách thức, đây là 1 thách thức chủ quan đối với ngành văn hoá. Nếu đội ngũ quản lý còn chưa đáp ứng được đầy đủ về trình độ quản lý thì làm sao có thể quản lý tốt cho dù đã giải quyết được phần nào các thách thức đã nêu ở trên. Hơn nữa trong quản lý nhân tố con nhười là cực kỳ quan trọng nó quyết định phần nhiều hiệu quả của quản lý. Do vậy nhà nước ta cần quan tâm chú trọng đến việc đào tạo bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ cho cán bộ quản lý ngành văn hoá.
*Giải pháp khắc phục:
Trong mỗi phần thực trạng đã phần nào chúng tôi đề cập tới giải pháp của ngành quản lý để giải quyết các thực trạng trên, nhưng nhìn chung để giải quyết tận gốc dễ mọi thách thức thì ngành văn hoá cần thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp để giải quyết các thách thức này đối với ngành mình để có thể xây dựng 1 nền văn hoá tiên tiến đâm đa bản sắc dân tộc.
Câu7: Những yếu tố cơ bản quyết định phương thức quản lý văn hoá là gì? Anh, chị phân tích các yếu tố đó.
Để có được 1 phương thức quản lý đúng đắn thì cần phải xác định trên căn cứ là đối tượng mà nhà nước quản lý sẽ đề ra các phương thức quản lý cho phù hợp, trong lĩnh vực văn hoá cũng vậy để xác định đúng phương thức quản lý cần xác định được đối tượng quản lý.
Trứoc hết là xác định phạm vi đối tưọng quản lý thì về mặt lý luận văn hoá là khái niệm đa nghĩa, thẩm thấu trong lĩnh vực, mọi hoạt động của đời sống xã hội, văn hoá có mặy ở khắp mọi nơi, mọi lúc, nó tác động đến các ứân đề của con người và của toàn xã hội. Nếu nhà quản lý chấp nhận cách nhìn rộng rãi và đa nghĩa này của văn hoá thì họ phải có các phương thức quản lý phù hợp với phạm vi đối tượng rộng như vậy, có thể mới có thể quản lý được hết được các đối tượng văn hoá trong đời sống. Song nhìn chung với nhà nước ta thì văn hoá được nhìn từ góc độ thực tiễn, sát thực hơn và chỉ giới hạn nó ở phạm vi vừa phải và hợp lý, chú trọng quản lý các vấn đề cụ thể của văn hoá. Ở nghĩa rộng thì văn hoá được nghiên cứu hay quản lý như 1 khoa học liên ngành với sự tham gia của nhiều cơ quan như văn hoá khoa học, văn hoá giáo dục, văn hoá thông tin… Nhưng ở phạm vi hẹp văn hoá lại thuộc sự quản lý của Bộ văn hoá thông tin tập trung vào các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật, văn hoá thông tin đại chúng, văn hoá xã hội, và hàng loạt các công việc văn hoá khác. Với nghĩa hẹp như vậy Bộ văn hoá thông tin dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính phủ sẽ là người điều hành quản lý nền văn hoá nước nhà với các phương thức cơ bản như bằng pháp luật của nhà nước, bằng các quy ước, bằng các chính sách về văn hoá, đầu tư tài chính cho văn hoá, thanh kiểm tra các hoạt động của văn hoá.
Yếu tố thứ 2 tác động tới phương thức quản lý nhà nước về văn hoá đó là đặc điểm của văn hoá và các sản phẩm văn hoá. Văn hoá và sản phẩm văn hoá cũng mang những đặc tính cơ bản của hàng hoá nói chung, nhưng đây là 1 hàng hoá đặc biệt để phục vụ nhu cầu tinh tần của con người nên nó cũng có đặc điểm riêng so với các sản phẩm khác và chính những đặc điểm này quyết định phương thức quản lý Nhà nước về văn hoá, đó là:
-Các nguyên vật liệu để sản xuát ra sản phẩm văn hoá không chỉ ở dạng vật thể mà nó còn ở dạng phi vật thể như kiến trúc, quan điểm, đạo đức… và nó lại chiếm 1 phần khá lớn để tạo nên các sản phẩm văn hoá.Vì vậy đặc điểm này đòi hỏi khi tính toán chi phí sản xuất không chỉ tính các chi phi thông thường như hao mòn vô hình và hữu hình mà còn phải tính đến việc đổi mới và nâng cao trình độ của người nghệ sỹ hay người làm ra các sản phẩm văn hoá. Nên khi quản lý Nhà nước ta cần để tâm tới vấn đề này và từ đó đưa ra các phương thức quản lý thích hợp như các công cụ quản lý ví mô đó là thuế và trị giá cho các sản phẩm này.
-Sản phẩm văn hoá cũng giống như bất kỳ 1 sản phẩm bình thường nào khác nó cũng có các giá trị sử dụng, trao đổi… song bản thân văn hoá lại mang trong mình rất nhiều các giá trị khác như giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, giá trị văn hoá… từ các giá trị này người ta chia văn hoá ra làm 2 lĩnh vực đó là văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể với 2 đối tượng như vậy thì hậu quả quản lý phải khác nhau để phù hợp với từng loại hình văn hoá.
-Sản phẩm văn hoá là 1 hàng hoá công cộng, khuyển dụng do đó khi quản lý nó cần đẩy mạnh phương thức tài trợ cho nó để nó có thể tồn tại và phát huy được hết đặc điểm tốt đẹp của văn hoá.
Như vậy qua đặc điểm của văn hoá ta thấy nhà nước ta không chỉ có thể sử dụng các biện pháp hành chính để quản lý văn hoá mà nó còn chịu tác động của quy luật thị trường vì vậy Nhà nước cũng cần có các biện pháp thị trường để điều tiết các hoạt động văn hoá và các sản phẩm văn hoá.
Như vậy ta có thể thấy văn hoá là 1 khái niệm đa nghĩa, phạm vi rộng lớn lại có đặc thù riêng do đó các phương thức quản lý Nhà nước về văn hoá cũng phải có nét riêng biệt.
Câu8: Tại sao nói rằng quản lý theo pháp luật là hình thức quản lý cơ bản, quan trọng nhất trong quản lý nhà nước về văn hoá. Nhà nước ta cần làm gì để nâng cao hiệu quả của công cụ pháp luật trong quản lý văn hoá.
*Nói tới quản lý Nhà nước thì không thể không đề cập tới công cụ pháp luật là 1 công cụ quan trọng và cơ bản hàng đầu trong quản lý nhà nước nói chung và cả quản lý nhà nước về văn hoá nói riêng. Người ta cho rằng quản lý bằng pháp luật là phương thức quan trọng và cơ bản nhất đó là nói lên vai trò to lớn của công cụ pháp luật. Điều này thể hiện ở những quan điểm sau đây:
-Văn hoá là 1 khái niệm rộng lớn, đa dạng, nó có mặt ở khắp mọi nơi, mọi lúc ở mọi tầng lớp do đó rất khó có thể quản lý nó 1 cách hiệu quả nếu không có pháp luật, chỉ pháp luật mới đủ sức tạo nên 1 hành lang pháp lý đầy đủ và khoa học để làm cơ sở cho các biện pháp quản lý văn hoá khác, nếu không có pháp luật là phương thức quản lý chủ yếu thì các phương thức quản lý khác càng không mang lại kết quả như mong muốn.
-Hơn nữa hiện nay văn hoá đã bị tấn công, sự xâm phạm của rất nhiều tư tưởng, luồng văn hoá ngoại lai độc hại, đã làm cho bản sắc văn hoá truyền thống bị mai một, mất dần đó và thay vào đó là văn hoá lai căng, phương Tây, và để trấn áp xu hướng này ngoài việc tuyên truyền thì chúng ta phải dùng pháp luật để giữ vững bản sắc văn hoá truyền thống, hạn chế sự lệnh hướng của văn hoá nước nhà.
-Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường thì đã có rất nhiều kiểu văn hoá mặt trái du nhập vào nước ta như bằng đĩa lậu, văn hoá phẩm đồ truỵ, bạo lực được đưa vào nước ta với số lượng ngày càng nhiều nếu pháp luật không ra tay xử lý thì tình trạng này sẽ làm băng hoại đạo đức của giới trẻ, tương lai củ xã hội chúng ta.
-Ngày nay tình trạng vi phạm các di tích lịch sử, cách mạng ngày càng nhiều, các tội phạm văn hoá gia tăng làm tăng tính bất ổn cho văn hoá, nạn ăn cắp và buôn bán cổ vật bất hợp pháp vẫn diễn ra khắp mọi nơi, vì vậy phải có khung hình phạt pháp luật nghiêm khắc để từng phạt ngững người vi phạm.
-Quản lý bằng pháp luật là phương thức cơ bản nhất bởi lẽ nó là phương pháp nên tảng, là cơ sở để từ đó nhà nước ta xây dựng nên các phương pháp quản lý khác như chính sách, đầu tư, thanh tra, các phương pháp này để thực hiện tốt cần được xây dựng trên một cơ sở pháp luật chắc chắn.
*Nhà nước cần phải làm các việc sau để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước bằng pháp luật: xem câu 1.
Giáo dục:
Câu12: Quan điểm cho rằng: “Nước nào có trình độ giáo dục cao, đầu tư mạnh cho giáo dục thì nhất định sẽ đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Điều này đúng hay sai? Hãy giải thích và nêu ví dụ.
Nước nào có trình độ giáo dục cao, đầu tư mạnh cho giáo dục thì nhất định sẽ đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Đây là quan điểm hoàn toàn đúng và rất khoa học. Điều này có thể giải thích cụ thể như sau:
Trước hết là trình độ giáo dục cao thì sẽ có tốc độ tăng trưởng cao bởi lẽ giáo dục là lĩnh vực truyền bá cung cấp và trang bị những tri thức, khoc học cho con người nhằm phát triển trí tuệ, nâng cao trình độ, lối sống và xây dựng kỹ năng lao động, thông qua đó con người có thể vận dụng trí tuệ này để làm việc phục vụ cuộc sống của bản thân và cho toàn xã hội.
-Giáo dục ở trình độ cao, hiện đại thì sẽ có năng lực để đào tạo ra một nguồn nhân lực có trình độ cao, có khả năng thích ứng với môi trường và được áp lực công việc. Đây sẽ là 1 nhân tố thúc đẩy trực tiếp tạo nên sự tăng trưởng cao cho nền kinh tế. Mặt khác giáo dục ở trình độ cao sẽ có khả năng cao trong việc phát huy hết được tiềm năng của con người vào phục vụ cuộc sống, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội.
-Giáo dục ở trình độ cao sẽ giúp cho người học tiếp cận được với các tri thức mới, khoa học công nghệ hiện đại, luôn luôn được cập nhật thông tin nhanh chóng bằng các phương tiện hiện đại điều này sẽ tạo nên nền kiến thức cơ bản và tri thức đầy đủ cho con người phục vụ cho việc phát triển đất nước.
Điều nay đã có rất nhiều trong thực tế nền giáo dục các quốc gia trên thế giới mà điểm hình là Hoa Kỳ, đây là 1 quốc gia có thể nói có trình độ giáo dục cao nhất của thế giới với hệ thống giáo dục khá hoàn thiện với đầy đủ các cấp học, đặc biệt là giáo dục ở trình độ cao của Hoa Kỳ rất phát triển như từ bậc đại học trở lên. Nếu giáo dục của Hoa Kỳ không chỉ hợp lý về cơ cấu, trình độ đào tạo hợp lý đáp ứng nhu cầu của thị trường về nguồn nhân lực mà nó còn rất đa dạng để mọi người có thể tham gia vào 1 loại hình giáo dục nào đó. Giáo dục được trang bị cơ sở hạ tầng, thiết bị giảng dậy hết sức hiện đại. Như vậy chúng ta có thể thấy giáo dục của Hoa Kỳ là rất phát triển và tương quan với sự phát triển của giáo dục là sự phát triển kinh tế vào bậcnhất thế giới, đã trở thành 1 nền kinh tế vững mạnh và rất phát triển.
Đầu tư mạnh cho giáo dục thì cũng đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao. Đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư có hiệu quả nhất cho tương lai. Đầu tư mạnh cho giáo dục là tạo nguồn cơ sở vật chất, kinh phí cho giáo dục để tạo nên 1 nền giáo dục có chất lượng cao, hiện đại thì sẽ tạo nên nguồn nhân lực có năng lực, sẽ là động lực hết sức quan trọng trong kinh tế tăng trưởng. Mặc dù đây là 1 loại hình đầu tư dài hạn, khó có thể thấy ngay được kết quả của vốn đầu tư nhưng nó lại có thể tác động lâu dài và rất hiệu quả.
-Đầu tư cho giáo dục là sẽ giúp cho giáo dục có khả năng cập nhật tri thức để cung cấp cho người học thì sẽ là điều kiện quan trọng cho giáo dục hỗ trợ cho việc phát triển kinh tế.
Điều này cũng đã được thể hiện rất nhiều trên thực tế, như nước Đức là 1 quốc gia vừa có nền giáo dục hiện đại, là được chính phủ đầu tư rất nhiều, đây là 1 quốc gia nền giáo dục miễn phí, và luôn luôn được đầu tư tốt nhất cho thế hệ tương lai, điều này đã mang lại hiệu quả rất cao cho đất nước này, đây cũng là 1 quốc gia có trình độ phát triển cao, khoa học kỹ thuật hiện đại, nền kinh tế tăng trưởng mạnh và ổn định, đứng đầu trong liên minh Châu Âu, như vậy chúng ta có thể thấy đây là quan điểm hoàn toàn đúng đắn.
Câu14: Theo quan điểm của anh, chị, thách thức lớn nhất của giáo dục Việt Nam hiện nay là gì? Tại sao? Nêu những giải pháp chính để tháo gỡ.
Nền giáo dục – đào tạo hiện nay của Việt Nam tuy đã có nhiều thành quả và đã có nhiều đổi mới. Nhưng cùng với sự phát triển của đất nước và của riêng của ngành giáo dục thì cũng đặt ra cho chúng ta rất nhiều những thách thức to lớn cần vượt qua để có thể đưa nền giáo dục nước nhà đi theo đúng định hướng và ngày càng phát triển có hiệu quả. Theo tôi các thách thức hiện nay của nền giáo dục Việt Nam là:
*Sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, giúp cho nhiều dân tộc, quốc gia có cơ hoọi tiến nhanh về phía trước, nhưng có các quốc gia sẽ có nguy cơ tụt hậu. Chúng ta hiện nay đang sống trong thời đại khoa học công nghệ hiện đại, loài người ngày càng phát triển và nhiều loại công nghệ hiện đại phục vụ cho cuộc sống của con người nói chung và cả của ngành giáo dục nói riêng, như máy tính, máy chiếu, các công nghệ hiệ đại phục vụ cho việc nghiên cứu của học sinh, sinh viên điều này đã tạo điều kiện cho các quốc gia nhậy bén, có điều kiện tiến nhanh về phía trước, nắm bắt được các công nghệ hiện đại phục vụ cho ngành giáo dục. Ví dụ như Nhật Bản là 1 quốc gia có những phát triển thần kỳ trong kinh tế xã hội và giáo dục vì họ đã nắm bắt, đặt trọng tâm vào việc phát triển giáo dục chất lượng cao, chú trọng phát triển khoa học công nghệ. Và đây cũng là 1 thách thức to lớn đối với ngành giáo dục Việt Nam, Tuy chúng đã đạt được nhiều thành tựu nhưng đã có 1 số biểu hiện lệnh lạc trong định hướng giáo dục, chưa chú trọng đến chất lượng giáo dục, chưa đầu tư đúng mức cho giáo dục hiệnrất có nguy cơ tụt hậu về giáo dục đặc biệt là các khu vực vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc, vì vậy để giải quyết các tháhc thức này thì Nhà nước ta phải đẩy mạnh việc coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, tăng cường xã hội hoá giáo dục, coi trọng việc cải cách giáo dục cho phù hợp và theo kịp với nền giáo dục của các quốc gia trên thế giới.
*Sự hội nhập đòi hỏi phải có năng lực cạnh tranh cao.
Việt Nam đang tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vì vậy thách thức đặt ra cho Việt Nam là năng lực cạnh tranh của ngành giáo dục, bởi lẽ nếu ngành giáo dục mà không có năng lực thì sẽ không thực hiện tốt vai trò và chức năng của ngành, không là nhân tố tác động tới sự phát triển của đất nước, Việt Nam đã bắt đầu phải đối đầu với các thách thức này đặc biệt là đối với giáo dục bậc đại học và đào tạo dậy nghề, năng lực cạnh tranh của giáo dục Việt Nam còn yếu kém các trình độ đại học của Việt Nam, còn chưa được các quốc gia trên thế giới công nhận và tín nhiệm. Như vậy để hạn ché thách thức này thì Nhà nước ta cần chú trọng việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo thực chất hơn nữa và có kế hoạch phát triển bậc đại học 1 cách hợp lý để phù hợp với điều kiện thực tế hơn nữa.
*Sức ép của dân số đông lên nếu giáo dục chưa phát triển đầy đủ của nước ta. Việt Nam là quốc gia có dân số đông, lại có tốc độ phát triển nhanh, cơ cấu dân số trẻ, nên số người đến trường hiện nay rất lớn, nhu cầu được đào tạo ngày càng tăng nhưng năng lực của giáo dục Việt Nam lại chưa thể đáp ứng hết được nhu cầu này, nên nó đã tạo cho ngành giáo dục 1 sức ép to lớn mà Nhà nước ta cần nhanh chóng giải quyết vấn đề như tăng cường đầu tư các nguồn lực cho nền giáo dục để đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu như hiện nay về lâu dài Nhà nước cần phải có chiến lược phát triển dân số hợp lý để vừa có đủ nhân lực phát triển đất nước và không tạo ra sức ép cho xã hội.
*Từ những tồn tại hiện nay của nền giáo dục Việt Nam sẽ tạo nên cho chúng ta các thách thức trong tương lai. Hiện nay nền giáo dục của Việt Nam còn rất nhiều tồn tại cần khắc phục như chất lượng đào tạo chưa cao còn nhiều cơ cấu bất hợp lý đặc biệt là giáo dục bậc đại học và dậy nghề gây nên tình trạng " Thừa thầy thiếu thợ " cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn gây khó khăn cho việc phát triển giáo dục, và 1 tồn tại đáng báo động là việc quản lý lỏng lẻo của ngành giáo dục gây nên những vấn đề bức xúc cho xã hội. Như vậy tất cả các tồn tại này sẽ là thách thức to lớn trong tương lai không xa, do vậy Nhà nước ta cần có biện pháp khắc phục những tồn tại này để tránh những thách thức cho tương lai.
Câu18: Anh, chị nêu và phân tích các biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực trong giáo dục.
Nguồn lực trong giáo dục được hiểu là toàn bộ đội ngũ cán bộ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và hệ thống cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật như trường lớp và trang thiết bị phục vụ cho giáo dục. Đối với Việt Nam chúng ta đã có 1 nguồn lực để phát triển giáo dục khá vững chắc và đa dạng tạo nên thúc đẩy nền giáo dục quốc dân phát triển mạnh. Nhưng trong thực tế do nhiều nguyên nhân đã khiến cho việc sử dụng nguồn lực này chưa có hiệu quả cao, chưa khai thác hết năng lực tối đa của các nguồn lực này. Vì vậy chúng ta cần có các giải pháp hữu hiệu để jgắc phục tình trạng này.
Đối với nguồn lực là con người thì cần phải quan tâm nhiều hơn nữa vì đây là yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển của giáo dục. Và Đảng, Nhà nước ta đã chỉ rõ "Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, sử dụng giáo viên đúng năng lực, đãi ngộ đúng công sức và tài năng với tinh thần, ưu đãi và tôn vinh nghề dậy học " và để thực hiện được tư tưởng chỉ đạo này chúng ta cần thực hiện ngay 1 số vấn đề sau đây:
-Phát triển và nâng cao chất lượng của hệ thống các trường lớp đào tạo lực lượng giáo viên cho các cấp, có các chính sách ưu đãi để thu hút những học sinh giỏi vào các trường sư phạm, đào tạo đội ngũ giáo viên không chỉ chú trọng vào số lượng mà còn đảm bảo chất lượng.
-Ban hành và thực hiện các chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần đối với giáo viên nói chung, đặc biệt quan tâm tới giáo viên ở vùng cao, sâu, xa, hải đạo để đảm bảo họ yên tâm công tác.
-Sắp xếp lại đội ngũ giáo viên theo chức danh và tiêu chuẩn để tiêu chuẩn hoá giáo viên, tổ chức bồi dưỡng thường xuyên nhằm nâng cao kiến thức và phương pháp sư phạm cho đội ngũ giáo viên đang làm việc.
-Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý ở các cấp trong đó chú trọng những cán bộ làm công tác nghiên cứu chính sách cán bộ thanh tra giáo dục.
Đối với việc sử dụng có hiệu quả nguồn vật lực của nền giáo dục là toàn bộ cơ sở vật chất, trang thiết bị dậy và học thì cần thực hiện các biện pháp sau đây:
-Trước hết cần tăng cường đầu tư xây dựng mới, sửa chứa lại các cơ sở này để nó thực sự có thể phục vụ hữu ích cho công tác giảng dậy của ngành giáo dục.
-Phải có đội ngũ giáo viên giỏi có thẻ sử dụng và hướng dẫn sử dụng các trang thiết bị hiện đại như máy tính, các phòng thứ nghiệm, xưởng sản xuất…
-Phải có kế hoạch sử dụng các trang thiết bị này 1 cách hiệu quả tránh để tình trạng bỏ không các nguồn vật lực cho giáo dục.
-Đầu tư có trọng điểm vào các khu vực đang thiếu nguồn lực để phát triển giáo dục, để tạo hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cao.
Câu10: Tại sao nói giáo dục là chiến lược hàng đầu của tất cả các nước, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong thời đại ngày nay.
Người ta cho rằng giáo dục là chiến lược hàng đầu của tất cả các nước, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, nó cũng giống như chính phủ Việt Nam coi giáo dục là quốc sách hàng đẩu đó là vì nó xuất phát từ vai trò và chức năng quan trọng của giáo dục và đào tạo. Trước hết nó được coi là chiến lược hàng đầu của các quốc gia trên thế giới là vì:
Giáo dục và đào tạo giúp phát triển tiềm năng con người, đóng góp vào sự phát triển của mỗi cá nhân và họ có thể phát huy và vận dụng hết tiềm năng của mình vào phục vụ cuộc sống. Điều này cũng có nghĩa là giáo dục đang thực hiện công tác đào tạo ra đội ngũ nguồn nhân lực có chất lượng caôch đất nước, có năng lực chuyên môn, khả năng thích nghi với thị trường, mà nhân tố con người là hết sức quan trọng là động lực để thúc đẩy xã hội phát triển, do đó nó được coi là chiến lược hàng quan trọng hàng đầu của các quốc gia.
-Giáo dục và đào tạo giúp cho con người tạo ra các tri thức mới, có điều kiện tiếp cận và nhận biết tri thức mới do vậy đây là nhân tố chủ yếu để quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nếu con người không được đào tạo, bổ sung kiến thức thì xã hội vẫn là thế không thể phát triển đi lên hay thay đổi được.
-Giáo dục và đào tạo ngay từ bước đầu đã giáo dục cho con người có ý thức và trách nhiệm công dân, đây là điều kiện tiên quyết để thực hiện nhân quyền, dân chủ trong thời đại ngày nay, khi mọi người đều có trí tuệ, trình độ thì họ mới tồn trọng và hợp tác bình đẳng với nhau.
-Và trên hết, hiện nay tất cả các quốc gia đều tất yếu coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của đất nước mình. Do vậy không thể phủ nhận vai trò to lớn này của ngành giáo dục và đào tạo.
Đây là đối với các quốc gia nói chung, còn riêng đối với các quốc gia đang phát triển thì giáo dục trở thành nhu cầu bức thiết của toàn xã hội, bởi các quốc gia này đang trong giai đoạn phát triển nên họ thiếu và cần rất nhiều thứ để tạo thành nguồn lực phát triển đất nước, đặc biệt là họ cần giáo dục nhanh chóng tạo ra cho họ nguồn nhân lực đầy đủ trình độ để phát triển đất nước mau chóng đưa đất nước vươn lên. Là các quốc gia đang phát triển do vậy họ phải đi tắt đón đầu, đặc biệt là với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao để họ đuổi kịp thế giới, để làm được điều này thì đương nhiên họ phải phát triển giáo dục vì vậy là con đường ngắn duy nhất đưa họ tiếp cận với tri thức của nhân loại, chứ các quốc gia đang phát triển không thể đủ năng lực tạo ra hay mua các công nghệ, khoa học, kỹ thuật này của các nước phát triển. Và chỉ với nền giáo dục hiện đại thì các quốc gia đang phát triển này mới có đủ năng lực để tự bảo vệ đất nước mình trước những mặt trái của xu thế toàn cầu hoá như hiện nay, mới có thể bảo vệ đất nước trước sức ép của các quốc gia khác.
Câu17: Mục tiêu của giáo dục Việt Nam đến năm 2010 là gì? Nhà nước cần có giải pháp chủ yếu gì để đạt được mục tiêu đó.
*Mục tiêu chung:
-Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp mục tiêu của Việt Nam, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước của từng vùng từng địa phương hướng tới 1 xã hội học tập, pjấn đấu đưa giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu trên 1 số lĩnh vực so với các nước phát triển trong khu vực.
-Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhuồn nhân lực đặc biệt chú trọng nguồn nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề trực tiếp góp phần nâng cao sức mạnh của nền kinh tế, đẩy mạnh tiến đô phổ cấp trung học cơ sở.
-Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục các cấp bậc học và trình độ đào tạo, phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu vừa tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng hiệu quả và đổi mới phương pháp dậy học, đổi mới quản lý giáo dục tạo cơ sở pháp lý và phát huy nội lực phát triển giáo dục.
*Mục tiêu cụ thể:
-Đối với giáo dục mầm non thì cần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trước 6 tuổi, tạo cơ sở để trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, thẩm mỹ… mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt là vùng nông thôn. Phấn đấu đến năm 2010 hầu hết trẻ em đều được chăm sóc, giáo dục bằng những hình thức thích hợp, quản lý lệ suy dinh dưỡng của trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non xuống 20%-15% năm 2010.
-Giáo dục phổ thông: thì thực hiện toàn diện về đức trí thể mỹ, cung cấp cho học sinh học vấn phổ thông cơ bản hệ thống và tính hướng nghiệp, tiếp cận trình độ của các nước phát triển xây dựng thái độ, phương pháp học tập đúng đắn, sáng tạo lòng ham học hỏi…
-Ở bậc tiểu học cần củng cố và nâng cao thành quả phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước, tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường từ 95% năm 2000 đến 97% năm 2010.
-Ở bậc trung học cơ sỏ, cung cấp cho học sinh học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật hướng nghiệp để có định hướng nghề nghiệp.
+Đạt chuẩn phổ cấp trung học cở sở ở các thành phố, đô thị, vùng kinh tế phát triển vào năm 2005 và trong cả nước vào năm 2010, tăng tỷ lệ học sinh nâng lên 909% năm 2010.
-Bậc trung học phổ thông thì thực hiện chương trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo cho học sinh có kiến thức cơ bản theo chuẩn thống nhất và tạo điều kiện cho học sinh phát huy hết năng lực của mình.
-Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào trung học phổ thông từ 38% năm 2000 lên 50% năm 2010.
*Giáo dục nghề nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến nâng cao chất lượng dậy nghề gắn với nâng cao ý thức ktr luật lao động và tác phong lao động hiện đại, gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, với việc làm trong qua trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế… mở rộng đào tạo kỹ thuật viên có nghiệp vụ kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp.
-Đối với bậc trung học chuyên nghiệp thì thu hút học sinh trong độ tuổi vào các trường trung học chuyên nghiệp đạt 10% năm 2005 và 15% năm 2010.
-Dậy nghề thu hút khoảng 15% số học sinh vào các trường dậy nghề, và khoảng 10% vào trường trung học chuyên nghiệp.
+Giáo dục cao đẳng, đại học, sau đại học để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có trình độ phù hợp với cơ cấu kinh tế xã hội của thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nâng cao khả năng hội nhập của đất nước, tăng cường thích ứng với việc làm trong xã hội, năng lực tự tạo việc làm cho mình và người khác.
-Nâng cao tỷ lệ sinh viên lên 200/ 1 vạn dân vào năm 2010 tăng quy mô đào tạo thạc sỹ và nghiên cứu sinh lên cao hơn nữa.
+Giáo dục không chính quy là 1 hình thức huy động tiềm năng của cộng đồng để xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội cho mọi người ở mọi trình độ, lứa tuổi mọi nơi có thể học tập suất đời phù hợp với hoàn cảnh điều kiện của mỗi cá nhân góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực.
+Giáo dục trẻ em khuyết tật là tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật được học tập ở 1 trong các loại hình lớp hoà nhập bám hoà nhập hoặc chuyên biệt đạt 70% vào năm 2010.
*Các giải pháp của nhà nước để phát triển giáo dục đạt được mục tiêu năm 2010
-Đổi mới mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, tiếp cận với trình độ tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và trên thế giới. Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, chú trọng giáo dục thể chất, bổi dưỡng nhân cách, hiện đại hoá trang thiết bị giảng dậy và học tập.
-Trong giáo dục phổ thông, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện giảm tải, cơ cấu chương trình hợp lý đảm bảo chuẩn kiến thức phổ thông.
+Chú trọng và nâng cao kiến thức tin học, ngoại ngữ cho học sinh, thực hiện và sử dụng sách giáo khoa mới.
-Xây dựng và ban hành danh mục ngành nghề đào tạo, đổi mới và chuẩn hoá nội dung theo hướng tăng kỹ năng thực hành, năng lực tự tạo việc.
-Ở giáo dục đại học và sau đại học thì cần tiến hành đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo theo hướng đa dạng hoá chuẩn hoá, hiện đại hoá…
-Ban hành chương trình khung cho đại học trong năm học mới, đổi mới chế độ thi cử, chế độ tuyển sinh, xây dựng quy trình chất lượng cao.
-Phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp giáo dục, phát triển đội ngũ nhà giáo đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu chuẩn về chất lượng đáp ứng nhu cầu và nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục.
-Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục, đổi mới chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, giảng viên, rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức nhà giáo.
+Giáo viên mầm non cần đào tạo nhiều chính quy để đáp ứng nhu cầu giáo viên cho các cơ sở giáo dục mầm non công lập và dân lập, tiến tới chuẩn hoá đội ngũ giáo viên mầm non.
+Điều chỉnh cơ cấu đội ngũ giáo viên phổ thông, tăng cường giáo viên nhạc hoạ, thể dục thể thao… Đặc biệt chú trọng đầu tư cho việc xây dựng đội ngũ giáo viên ở miền núi, vùng sâu…
+Đối với các trường dậy nghề phải bổ sung và tăng cường giáo viên cho 1 số lĩnh vực mới, luân phiên bồi dưỡng nâng cao trình độ.
+Khẩn trương đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên bậc đại học, lựa chọn các sinh viên giỏi làm nguồn cho lớp giảng viên kế tiếp.
+Hoàn thiện định mức lao động, chế độ làm việc, chế độ chính sách đối với nhà giáo.
+Tăng cường năng lực đào tạo và đổi mới chương trình đào tạo các trường sư phạm và các khoa sư phạm, ưu tiên đào tạo người dân tộc thiểu số và giáo viên biết tiếng dân tộc.
-Đổi mới quản lý giáo dục, đổi mới về cơ bản tư duy và phương thức quản lý giáo dục theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước phân cấp mạnh mẽ nhằm phát huy tính chủ động tự chịu trách nhiệm.
+nâng cao hiệu quả chỉ đạo tập trung của chính phủ, đổi mới cơ chế và phương thức quản lý giáo dục theo hướng phân cấp quản lý để phát huy sức sáng tạo của các cấp.
+Tăng cường công tác lập kế hoạch, thực hiện đủ cách hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
+Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục.
-Tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và phát triển mạng lưới trường lớp, cơ sở giáo dục như cơ cấu lại hệ thống giáo dục đáp ứng nhu cầu của đất nước.
+Mở thêm cơ sở giáo dục mầm non.
+Phát triển mạng lưới trường phổ thông rộng khắp trên toàn quốc.
+Thực hiện phân ban ở bậc phổ thông trên cơ sở đảm bảo chuẩn kiến thức.
+Củng cố mở thêm cơ sở dậy nghề.
+Triển khai quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng.
+Củng cố mở rộng các trung tâm giáo dục thường xuyên.
*Tăng cường nguồn tài chính và cơ sở vật chất cho giáo dục.
-Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước, ưu tiên đầu tư cho giáo dục trong tương quan với các ngành khác, ngoài ra còn huy động thêm nguồn tài chính khác cho giáo dục.
-Đổi mới cơ chế tài chính theo hướng song song với trao quyền về chủ động tài chính cho giáo dục.
-Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị giảng dậy trong giáo dục, xây dựng phòng thứ nghiệm thư viện…
*Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục.
-Phát triển các trường ngoài công lập, mở rộng các quỹ khuyến học, bảo trợ giáo dục…
-Xây dựng nhà trường thành trung tâm văn hoá, môi trường giáo dục lành mạnh, toàn diện cả con người.
*Đẩy mạnh hợp tác quốc tế vể giáo dục, khuyến khích mở rộng và đẩy mạnh các quan hệ hợp tác về đào tạo, nghiên cứu với nước ngoài.
-Huy động nguồn lực từ bên ngoài, tăng dự án viện trợ vật chất, giúp đỡ đào tạo, giảng dậy…
-Hợp tác nghiên cứu, đầu tư xây dựng.
-Khuyến khích các chủ đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm tiềm lực, truyền thống.

2 nhận xét: