Thứ Năm, 23 tháng 10, 2008

TUYỂN TẬP TIỂU LUẬN - LUẬN VĂN

Link dowload: http://upandshare.net/tieuluanluanvan.zip
Chú ý: Để có password giải nén các bạn soạn tin theo cú pháp:VG TLLV gửi đến số: 8327
Phí: 3.000VND

TÀI LIỆU MÔN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÀI CHÍNH

Mời bạn click vào link này để dowload về tham khảo: http://www1.webng.com/hanhchinh/taichinhcong.zip
Nếu khi tải về máy mà văn bản bị lỗi không đọc được, có một giải pháp giúp bạn nhận dạng mã và chuyển mã để bạn để thể xem được tài liệu bị lệch mã, đó là nhấp vào link sau đây và làm theo hướng dẫn trong đó:
http://hanhchinhvn.com/web/chuyenma
THAM KHẢO:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊNgày 3/12/2004. Cập nhật lúc 15h 38'
Tài chính - tiền tệ là lĩnh vực trọng yếu và rất nhạy cảm trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Do đó, bước sang thời kỳ đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước nhằm đẩy nhanh tiến trình cải biến và phát triển nền kinh tế nước ta thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước đã quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đổi mới căn bản quản lý nhà nước về tài chính - tiền tệ. Nhờ đó đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển theo những mục tiêu hoạch định.Tài chính - tiền tệ là lĩnh vực trọng yếu và rất nhạy cảm trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Do đó, bước sang thời kỳ đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước nhằm đẩy nhanh tiến trình cải biến và phát triển nền kinh tế nước ta thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước đã quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đổi mới căn bản quản lý nhà nước về tài chính - tiền tệ. Nhờ đó đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển theo những mục tiêu hoạch định. I 1. Tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện, nền kinh tế nước ta đã từng bước chuyển biến từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang "phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng" (Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992). Nội dung thực chất của mô hình kinh tế đó là Nhà nước và thị trường cùng tham gia điều tiết quá trình vận hành của nền kinh tế dưới tác động chủ đạo của Nhà nước và kinh tế nhà nước nhằm hướng vào những mục tiêu đã được hoạch định. Đây là mô hình kinh tế chưa có tiền lệ và chưa được thực tiễn kiểm chứng. Hơn thế nữa, chúng ta lại tiến hành xây dựng và vận dụng nó dưới áp lực phát triển rất nhanh chóng của cách mạng khoa học - công nghệ, của kinh tế tri thức, của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nên rất phức tạp, vừa có thời cơ nhưng cũng lắm thách thức. Nhà nước từ chỗ là chủ thể tập trung trong mình mọi quyền quyết định, điều tiết, chỉ huy toàn bộ các hoạt động của nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, chuyển sang chỉ giữ vai trò hoạch định chiến lược, kế hoạch, mục tiêu định hướng và quản lý, điều tiết vĩ mô sự vận hành của nền kinh tế theo chiến lược, kế hoạch, mục tiêu định hướng đó. Trong tiến trình đổi mới này, mặc dù kinh tế nhà nước vẫn giữ vị trí chủ đạo, nhưng Nhà nước đã cho phép và khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Nhà nước sử dụng cơ chế thị trường để điều chỉnh giá cả, đảm bảo cân đối các quan hệ cung - cầu trong quá trình vận hành nền kinh tế. Ngược lại, tác động của thị trường cũng làm cho vai trò của Nhà nước phải có những thay đổi cần thiết cho phù hợp với điều kiện mới. Nhà nước chủ trương giảm dần, tiến tới xóa bỏ việc điều hành trực tiếp và can thiệp quá mức vào quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thay vào đó, Nhà nước tập trung vào việc hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trình mục tiêu, xây dựng các hành lang pháp lý và thực thi các hoạt động quản lý vĩ mô. Nhất là việc nhà nước sử dụng các công cụ của chính sách tài chính - tiền tệ tác động và can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp để điều tiết nền kinh tế hoạt động theo mục tiêu và quỹ đạo hợp lý, đảm bảo đạt hiệu quả cao, tối đa hóa phúc lợi kinh tế cho toàn xã hội, phân phối thu nhập công bằng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững. 2. Trong 18 năm đổi mới vừa qua, hoạt động quản lý nhà nước về tài chính - tiền tệ đã có nhiều chuyển biến tích cực trên tất cả các mặt. Cụ thể là quan điểm đường lối của Đảng đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật và đã xây dựng, ban hành một hệ thống luật thuế hiện đại; kiện toàn và đổi mới một cách đồng bộ hệ thống tổ chức bộ máy thu thuế; Xây dựng một hệ thống pháp luật quản lý ngân sách nhà nước rành mạch rõ ràng; bổ sung và hoàn thiện, chuẩn xác hóa hệ thống chính sách chi tiêu ngân sách nhà nước. Ngay từ năm đầu của thời kỳ đổi mới, cải cách hệ thống thu ngân sách nhà nước, trọng tâm là cải cách hệ thống thuế quốc gia đã được đặt lên vị trí hàng đầu. Quá trình cải cách thuế được thực hiện qua hai giai đoạn: Giai đoạn 1 từ 1986 - 1995 và giai đoạn 2 từ 1996 - 2005. Thông qua quá trình cải cách này, một hệ thống thuế mới, hiện đại, thống nhất, ngày càng hoàn thiện đã được hình thành và phát huy tác dụng to lớn trong thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ đó, từ một hệ thống quản lý thu ngân sách nhà nước dựa trên cơ sở các quyết định rời rạc, thiếu tính hệ thống, đồng bộ và thiếu rành mạch, đã chuyển thành một hệ thống quản lý các nguồn thu ngân sách ngày càng được thể chế hóa, hợp pháp hóa, công khai hóa và sát hợp với thực tiễn. Trong đó, nghĩa vụ và trách nhiệm của các đối tượng nộp thuế được xác định rõ ràng, minh bạch. Nguồn thu ngân sách nhà nước ngày càng gia tăng một cách ổn định, Chính phủ có thể dự đoán trước được những biến động trong thu ngân sách trên cơ sở những căn cứ khoa học xác đáng để chủ động điều hòa thu, chi ngân sách nhà nước. Năm 1997, Luật ngân sách nhà nước có hiệu lực thi hành và ngày 16-12-2002 Quốc hội khóa XI đã thông qua việc sửa đổi, bổ sung một số điều Luật ngân sách nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2004, phù hợp với việc triển khai các luật thuế mới (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt) nhằm cải thiện tình hình phân cấp ngân sách, tạo thế ổn định và chủ động cho ngân sách địa phương. Luật ngân sách nhà nước và các văn bản pháp luật khác về huy động và sử dụng nguồn vốn của ngân sách nhà nước đã tạo khuôn khổ pháp luật để đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước. Việc áp dụng Luật ngân sách nhà nước đã đánh dấu bước tiến mới, nâng cao tính pháp quy trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước, trong quan hệ tài chính giữa các cấp, các ngành. Ngoài ra, Luật ngân sách nhà nước đã đề ra một số quan điểm cơ bản của Nhà nước Việt Nam trong quản lý chi tiêu ngân sách nhà nước mang tính định hướng XHCN. Những quan điểm này được thể hiện rõ trong mục tiêu và nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước. Mục tiêu của quản lý ngân sách nhà nước là "để quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của nhà nước, tăng tích lũy để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại". Nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước cũng được nêu cụ thể: "Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý gắn quyền hạn với trách nhiệm". Luật ngân sách nhà nước đã thể hiện một sự thay đổi căn bản theo tư duy mới về quan điểm xây dựng, quản lý, điều hành, thực thi ngân sách nhà nước. Các quy trình ngân sách nhà nước đã được điều chỉnh, hợp lý hóa và minh bạch hóa bằng các điều khoản pháp luật cụ thể: - Về đối tượng chịu sự điều chỉnh, quản lý của ngân sách nhà nước, luật đã xác định rõ: "Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách các đơn vị hành pháp các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân". - Về quản lý bội chi ngân sách, luật quy định: "Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách". - Về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, Luật ngân sách nhà nước đã xử lý một cách căn bản quan hệ tài chính giữa các cấp chính quyền, quan hệ ngân sách giữa Trung ương và địa phương. Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa ngân sách các cấp thực hiện theo nguyên tắc phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể. Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm các nhiệm vụ chiến lược, có quy mô toàn quốc. Còn ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong thực hiện nhiệm vụ được giao, ổn định tỷ lệ điều tiết và số cấp bổ sung từ 3 - 5 năm. Nhờ đó đã tạo thế chủ động và đảm bảo tính độc lập tương đối của ngân sách địa phương. Một mặt, mở rộng quyền tự chủ để địa phương chủ động khai thác các nguồn thu tại chỗ và chủ động bố trí chi tiêu hợp lý. Mặt khác, đảm bảo cho địa phương có đủ năng lực tài chính thực hiện các nhiệm vụ chính trị trên địa bàn. 3. Từ những phân tích và số liệu nêu trên cho thấy một thành công nổi bật nữa của quản lý nhà nước về tài chính - tiền tệ trong những năm đổi mới là đã quản lý được quan hệ thu, chi và thâm hụt ngân sách nhà nước. Trước thời kỳ đổi mới, nguồn thu của ngân sách nhà nước ta từ thuế, phí, lệ phí và toàn bộ số thu khác trong nước cộng lại, thường không đảm bảo đủ chi thường xuyên, chứ chưa nói gì tới chi đầu tư phát triển. Do đó, bội chi ngân sách với tỷ lệ cao diễn ra liên tục từ năm này đến năm khác, buộc Nhà nước phải dựa vào việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, dẫn tới "lạm phát phi mã" đã xảy ra trong suốt một thời gian dài, gây nên sự mất cân đối nghiêm trọng các chỉ số kinh tế vĩ mô. Vì thế, nền kinh tế nước ta đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng, xã hội mất lòng tin, nhiều tiêu cực về kinh tế - xã hội đã phát sinh, tác động xấu đến sản xuất và đời sống. Kể từ khi tiến hành đổi mới nền kinh tế, đặc biệt là từ những năm đầu thập niên 90 đến nay, chính phủ đã kiên quyết giữ nghiêm kỷ luật tài chính, hạn chế tiến tới xóa bỏ phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Các nguyên tắc thu, chi ngân sách lành mạnh được thiết lập, "ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thương xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn bội chi thì số bộ chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách". Theo nguyên tắc này, bội chi ngân sách nhà nước nói chung đã được kiềm chế ở mức cho phép, cao nhất là 5% GDP. Bình quân giai đoạn 1991 - 2000 bội chi ngân sách nhà nước ở vào khoảng 3,7% GDP, do Chính phủ kiên quyết cắt giảm chi tiêu nên mức thâm hụt đã giảm dần. Nếu như trong những năm 1986 - 1990, nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách chủ yếu còn dựa vào phát hành tiền (57,9%), vay nợ nước ngoài (38,5%), vay trong nước (3,7%) thì từ năm 1992 - 2000, nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước đã được xử lý bằng các giải pháp vay trong nước thông qua phát hành trái phiếu chính phủ và vay nước ngoài, chủ yếu là nguồn hỗ trợ phát triển chính thức của chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế (ODA). Từ năm 1995 đến nay nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước chủ yếu là từ nguồn vay trong nước, trung bình của các giai đoạn này chiếm khoảng 70%, còn nguồn vay nước ngoài trung bình chiếm khoảng 30%. Nhờ đó mà giảm được áp lực tăng chỉ số giá tiêu dùng và khống chế được lạm phát ở mức một con số. II 1. Quán triệt và cụ thể hóa đường lối đổi mới của Đảng do Đại hội VI đề ra: Trên lĩnh vực tiền tệ, Chính phủ và Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương và thực thi nhiều giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng lạm phát "phi mã" tồn tại trong nhiều năm. Đảng, Chính phủ và sự chuẩn bị chu đáo của hệ thống tài chính - ngân hàng cùng các bộ, ngành hữu quan nên đã thực hiện thành công "giải pháp tình thế" cắt được "cơn sốt lạm phát phi mã", đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát: kéo lạm phát từ mức 774% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1990, 17,5% năm 1991... và từ năm 1996 lại nay kiểm soát được lạm phát ở mức một con số, trong đó năm 2003 lạm phát chỉ ở mức 4%. 2. Trên cơ sở những thành công bước đầu của tiến trình đổi mới lĩnh vực tiền tệ - tín dụng, từ tháng 5-1991, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh về ngân hàng nhà nước và Pháp lệnh về các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Thực hiện 2 pháp lệnh này đã đổi mới, phân định được hệ thống ngân hàng Việt Nam thành ngân hàng 2 cấp: Ngân hàng nhà nước Việt Nam làm chức năng của ngân hàng trung ương, giữ vai trò điều hành, quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng và thanh tra, giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát và đảm bảo sự ổn định giá trị của đồng tiền Việt Nam. Còn các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng và các định chế phi ngân hàng có hoạt động tín dụng thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ. Từ thực tiễn của 5 năm triển khai thực hiện 2 pháp lệnh này cùng với những kết quả nghiên cứu khoa học trên lĩnh vực này đã đưa tới sự ra đời Luật ngân hàng nhà nước và Luật ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng, có hiệu lực từ đầu năm 1997. Tiếp đến là sự bổ sung, sửa đổi hướng tới sự hoàn thiện 2 luật này. Với những đổi mới về cơ sở pháp lý như vậy đã làm tăng thêm tính hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước. Nhờ đó, đã đưa hoạt động ngân hàng từng bước chuyển sang thời kỳ mới, tiếp cận với yêu cầu tạo lập và thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ những chuyển biến đó mà hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể trong cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế quốc dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức độ tương đối cao so với các nước trong khu vực ASEAN. Cùng với hệ thống ngân hàng đổi mới, các dịch vụ tài chính khác như các quỹ bảo hiểm, đầu tư, công ty tài chính, tài chính thuê mua... cũng dần dần được xác lập và cải cách, đi dần vào quỹ đạo chuẩn mực của thị trường tài chính - tiền tệ, góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời bước đầu có điều kiện về cơ sở vật chất và công nghệ để tiến lên hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Chính phủ và các bộ, ngành hữu quan đã cho phép một số thể chế tài chính mới bắt đầu khởi động để tiến hành tách bạch giữa cung ứng vốn tài chính dưới hình thức ưu đãi chính sách ra khỏi khu vực thị trường tài chính - tiền tệ. Bước đầu những thể chế tài chính này đã phát huy tác dụng. Tuy vậy, không phải mọi việc đều đã xong xuôi, về phương pháp và công cụ để thực hiện, giải quyết vấn đề này còn có chỗ phải tiếp tục xem xét để đi đến hoàn thiện. Những năm gần đây, nước ta đã ý thức được và có sự khởi động mạnh trong việc nâng cao công nghệ của thị trường tài chính - tiền tệ, thông qua việc thực hiện nhiều dịch vụ và công cụ mới trong huy động vốn, cung ứng vốn và cung ứng tiện ích thanh toán tiền tệ hiện đại. Nhờ đó đã góp phần phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy vậy so với thế giới thì Việt Nam mới bằng 1/20 (thế giới có tới 6.000 dịch vụ thì Việt Nam mới có 300 dịch vụ) và còn bất cập so với yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. 3. Trong hoạch định, quản lý và điều hành thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia có thành tựu nổi bật là đã động viên, phân bổ nguồn lực tài chính - tiền tệ tương đối bài bản, thông qua một hệ thống công cụ tài chính và các kênh của nó, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, hoàn thành các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong suốt những năm đổi mới, tạo được dự trữ tài chính nhà nước từ không đến có và đang tăng lên một mức độ đáng kể. Đồng thời giải quyết tốt việc trả nợ nước ngoài do những năm trước để lại. Riêng thành tựu về hoạch định quản lý và điều hành thực hiện chính sách tiền tệ trong những năm đổi mới thể hiện rõ nhất là đã chủ động sử dụng một số công cụ của chính sách tiền tệ để tác động vào hệ thống tín dụng, đưa lãi suất tín dụng chuyển dần từ lãi suất âm sang lãi suất dương vào giữa thập niên 90. Gần đây ở nước ta về căn bản đã chuyển sang giai đoạn tự do hóa lãi suất, đáp ứng được yêu cầu của phát triển nền kinh tế thị trường. Đồng thời đã quản lý và điều hành tương đối tốt chính sách tỷ giá ngoại tệ. Chuyển từ công cụ điều hành trực tiếp sang công cụ gián tiếp, điều hành thị trường tiền tệ đảm bảo cung ứng tốt phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân, kiềm chế được lạm phát, ổn định được giá trị đồng tiền (VNĐ) qua nhiều năm trong thời kỳ đổi mới. Đặc biệt trong những năm xảy ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực châu Á, nền kinh tế Việt Nam vẫn trụ vững và khắc phục được những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đó, giữ được thế ổn định tương đối. Mặt khác, thông qua quản lý, điều hành tốt việc thực thi chính sách tiền tệ đã góp phần tăng dự trữ ngoại tệ cho ngân hàng trung ương từ chỗ không đáng kể đến nay đã lên tới hơn 4 tỷ USD. III Những khiếm khuyết, bất cập trong hệ thống tài chính - tiền tệ ở nước ta hiện nay 1. Quá trình cải cách thuế ở nước ta trong những năm đổi mới đã đạt được nhiều tiến bộ, nhưng cũng còn nhiều khiếm khuyết, bất cập cả trong luật lệ lẫn trong hành thu và giám sát thu. Hệ thống thuế ở nước ta hiện nay đã được cải cách rất cơ bản, nhưng vẫn còn nhiều thứ thuế, phí trong ngân sách và nhiều thứ phí động viên ngoài ngân sách rất rườm rà, tản mạn, gây tiêu cực, thất thoát và không có tác dụng khuyến khích đầu tư của dân chúng. 2. Nợ nước ngoài mà Nhà nước vay trong điều kiện của nước ta hiện nay là cần thiết. Nhưng việc sử dụng nó có nơi, có lúc chưa đúng mục tiêu và không hiệu quả. Thậm chí không ít doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, khó có khả năng trả nợ trong tương lai, nhưng vẫn được thụ hưởng từ những khoản nợ này. Tại đây còn có khiếm khuyết trong cơ chế tài chính nội tại và nhiều sơ hở ngay trong khâu đàm phán tài chính với nước ngoài và các khâu tiếp theo ở trong nước, gây cản trở lớn, làm chậm việc giải ngân. 3. Nguồn vốn đầu tư của nhà nước bị phân bổ dàn trải, không đầu tư tập trung dứt điểm công trình; không quan tâm đúng mức đến sự phát triển cân đối ngành, vùng, lãnh thổ. Nhiều trường hợp đã không quan tâm đúng mức và phân bổ vốn không tính đến việc kết hợp giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và bảo vệ môi trường. 4. Vấn đề phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, tuy đã được luật hóa, nhưng còn nhiều lúng túng. Có cấp ngân sách mà không có khả năng tạo ra hàng hóa và dịch vụ công cộng, do đó mà sự phân cấp này trở nên hữu danh vô thực. Trong phân cấp ngân sách dù đã cải tiến, song vẫn còn tình trạng biến tướng bao cấp "xin - cho" ở một mức độ nhất định, do quyền chủ động của ngân sách địa phương vẫn chưa được rõ ràng. Vì thế, đã tạo nên tâm lý ỉ lại, triệt tiêu ý thức chủ động của một số địa phương và ngành trong hệ thống công quyền. 5. Cấu trúc thị trường tài chính - tiền tệ của nước ta còn có những khiếm khuyết, bất cập trên nhiều mặt: - Thị trường vốn dài hạn mới bước đầu hình thành và còn rất hạn hẹp, chưa phát huy được tác dụng trong nền kinh tế, do nhiều nguyên nhân từ phía nền kinh tế và trình độ phát triển của thị trường tài chính. - Thị trường tiền tệ tuy đang phát huy tác dụng nhưng đã và đang bộc lộ sự bất cập là nguồn vốn VNĐ chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư, tổng dư nợ cho vay luôn cao hơn tổng vốn huy động. Có những nghịch lý đang tồn tại trong nền kinh tế và trong bản thân các ngân hàng thương mại, khiến cho những ngân hàng này không sử dụng hết lượng ngoại tệ huy động được vào đầu tư mà phải gửi ra nước ngoài và chịu lỗ. - Các ngân hàng thương mại của nước ta quá nhỏ bé về vốn. Riêng 4 ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất ở Việt Nam thì chỉ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn có vốn pháp định cao nhất là 5.000 tỷ VNĐ. Còn ở mức trung bình như Ngân hàng công thương Việt Nam thì chỉ có 2.500 tỷ VNĐ. Đây là một bất cập rất lớn, vì với vốn tự có ở mức như hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ có tỷ lệ vốn vào khoảng từ 2,5% đến 4% so với tổng tài sản "có". Trong khi thông lệ quốc tế đòi hỏi tỷ lệ này ít nhất phải không dưới 8%. Rõ ràng là với tỷ lệ này thì nội lực hiện có của các ngân hàng thương mại Việt Nam không đảm bảo điều kiện cần và đủ để bước vào cuộc cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế mà thời gian không còn cho phép chờ đợi. 6. Trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản trị của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn ở mức lạc hậu so với khu vực và quốc tế, mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ trong những năm đổi mới vừa qua. Ngoài ra còn nhiều mặt hạn chế khác. Đó là: - Thị trường tài chính - tiền tệ nước ta thiếu nghiêm trọng vốn đầu tư và vốn tín dụng dài hạn. Do đó, đang phải sử dụng một phần vốn tín dụng ngắn hạn để cho vay và đầu tư dài hạn. Điều này hàm chứa những nguy cơ tiềm ẩn có khả năng dẫn tới khủng hoảng nợ. - Tình trạng nợ xấu, trong đó bao gồm cả nợ quá hạn không thu hồi được, đang là gánh nặng đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng nước ta. - Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng ở Việt Nam vẫn đang chịu sức ép của việc cho vay theo chỉ định ở một mức độ nhất định. Quyền chủ động của họ tuy đã được mở ra, nhưng mới chỉ là hình thức mà chưa đi vào thực chất. - Ngân hàng nhà nước, nhất là các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chưa quản lý, điều hành một cách có hiệu lực và hiệu quả việc thực thi chính sách tiền tệ. Sở dĩ như vậy là do thị trường liên ngân hàng ở nước ta vừa mới hình thành, nên chưa phát triển sôi động. Từ đó không hình thành được "lãi suất cơ bản" một cách thực chất để giúp cho ngân hàng nhà nước trung ương chỉ đạo việc thực thi tốt chính sách tiền tệ. Mặt khác, cho đến nay ngân hàng nhà nước, đặc biệt là các chi nhánh ở địa phương vẫn chưa thực sự được chủ động và độc lập tương đối trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Tổ chức của ngân hàng nhà nước còn cồng kềnh, có chi nhánh ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong khi nhu cầu thực tế và thông lệ quốc tế cho thấy không cần thiết phải như vậy. IV Từ những trình bày, phân tích trên chúng tôi có một số kiến nghị như sau: 1. Cần làm cho mọi ngành, mọi cấp nhận thức rõ trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hệ thống tài chính - tiền tệ có vai trò rất trọng yếu, là xương sống của nền kinh tế. Trong đó tài chính nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, hệ thống ngân hàng là "trung tâm thần kinh". 2. Trong chỉ đạo, quản lý, điều hành lĩnh vực tài chính - tiền tệ có liên quan trực tiếp đến toàn bộ nền kinh tế, từ vĩ mô đến vi mô, từ vùng đến lãnh thổ, từ trung ương đến các cấp chính quyền và các bộ, ngành, các tụ điểm thị trường cần phải có sự phối, kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan trong việc ban hành luật lệ, chính sách và giữa các ngành, các cấp để không xảy ra những trục trặc không đáng có trong quá trình đầu tư, làm hạn chế, triệt tiêu động lực hoặc để xảy ra tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". 3. Tiếp tục hoàn thiện các luật thuế theo phương châm vừa hiện đại vừa gọn nhẹ, có tác dụng khuyến khích thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng được thu ngân sách nhà nước, và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời tiếp tục hoàn thiện việc phân cấp ngân sách, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong đó giao quyền tự chủ cao hơn cho các cấp chính quyền địa phương để nâng cao tính tự chủ của địa phương, xóa bỏ tâm lý ỉ lại và sự bao cấp tràn lan. 4. Đồng bộ hóa các luật lệ liên quan đến môi trường đầu tư của hệ thống tài chính - tiền tệ. Tạo môi trường đầu tư lành mạnh cho hệ thống tài chính - tiền tệ Việt Nam. 5. Đồng thời với việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, cần phải cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước theo hướng Nhà nước nắm quyền chi phối 51% vốn và cấu trúc lại hệ thống ngân hàng theo hướng hiện đại. Chỉ với phương sách này mới nâng cao được năng lực của hệ thống ngân hàng Việt Nam. 6. Cần đẩy mạnh phát triển và hoàn thiện "thị trường mở" theo phương châm hiện đại hóa. Trên cơ sở đó mà thực thi chức năng quản lý, điều tiết thị trường tài chính - tiền tệ bằng cách "bơm" tiền vào hay "hút" tiền ra khỏi lĩnh vực lưu thông theo mục tiêu của chính sách tiền tệ và tín hiệu của thị trường một cách hài hòa, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cũng trên cơ sở này mà góp phần kiềm soát lạm phát tiền tệ ở mức hợp lý có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. 7. Tiếp tục làm trong sạch và lành mạnh hóa tình trạng tài chính của các ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên cơ sở tiếp tục hoàn thành dứt điểm việc xử lý nợ xấu còn tồn đọng. 8. Cần thực thi một hệ thống giải pháp thiết thực, đồng bộ để tạo niềm tin của dân chúng đối với VNĐ. Bởi lẽ đã một thập niên VNĐ về căn bản giữ được giá trị ổn định, song người dân vẫn chưa yên tâm với nó, nên ít dùng nó để đầu tư vốn dài hạn. Cũng vì lý do này nên tình trạng đô la hóa vẫn tồn tại và tiếp diễn trong nền kinh tế nước ta.
Theo Thông tin những vấn đề lý luận số 19 tháng 10/2004 của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Thứ Tư, 22 tháng 10, 2008

KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Tài liệu 1:
Đây là tài liệu ôn tập môn kinh tế chính trị, mình post lên cho mọi người tham khảo nha, các bạn Nhấp vào đây để tải về.pdf
Tài liệu 2:
Hướng dẫn ôn thi Kinh tế chính trị. Sách bao gồm 35 câu hỏi ôn tập và đáp án. Dung lượng: 495KB được biên soạn bởi các Giáo sư, tiến sĩ của trung tâm bồi dưỡng cán bộ giảng dạy Lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Mời các bạn download tài liệu tại đây:
Các bạn vào đây để download phần mềm download cực nhanh.
Các bạn vào đây để download về phần mềm đọc sách .prc:
http://www.3c.com.vn/Story/vn/hotrokhachhang/softwaredownload/2007/2/7804.html

Ngoài ra, các bạn có thể tham khảo một số tài liệu liên quan đến môn học dưới đây:

Đề cương 45 câu hỏi ôn tập
Môn: Kinh tế chính trị Mac- Lê Nin

Câu1: Vì sao sản xuất của cải vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội? Ý nghĩa của việc nghiên cứu?

Sản xuất của cải vật chất là quá trình tác động giữa con người với tự nhiên nhằm biến đổi vật thể của tự nhiên để tạo ra các sản phẩm phù hợp nhu cầu của mình.
Sản xuất của cải vật chất là hoạt động cơ bản nhất trong các hoạt động của con người, là cơ sở của đời sống xã hội loài người. Đời sống xã hội bao gồm nhiều mặt hoạt động khác nhau như: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - công nghệ, thể thao, tôn giáo, v.v.. Các hoạt động này thường xuyên có quan hệ và tác động lẫn nhau. Xã hội càng phát triển thì các hoạt động nói trên càng phong phú, đa dạng và có trình độ cao hơn. Dù hoạt động trong lĩnh vực nào và ở giai đoạn lịch sử nào thì con người cũng cần có thức ăn, quần áo, nhà ở, v.v., để duy trì sự tồn tại của con người và các phương tiện vật chất cho hoạt động của họ. Muốn có các của cải vật chất đó, con người phải không ngừng sản xuất ra chúng. Sản xuất càng được mở rộng, số lượng của cải vật chất ngày càng nhiều, chất lượng càng tốt, hình thức, chủng loại... càng đẹp và đa dạng, không những làm cho đời sống vật chất được nâng cao mà đời sống tinh thần như các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao... cũng được mở rộng và phát triển. Quá trình sản xuất của cải vật chất cũng là quá trình làm cho bản thân con người ngày càng hoàn thiện, kinh nghiệm và kiến thức của con người được tích luỹ và mở rộng, các phương tiện sản xuất được cải tiến, các lĩnh vực khoa học, công nghệ ra đời và phát triển giúp con người khai thác và cải biến các vật thể tự nhiên ngày càng có hiệu quả hơn.
Thực trạng hoạt động sản xuất của cải vật chất, quy mô, trình độ và tính hiệu quả của nó quy định và tác động đến các hoạt động khác của đời sống xã hội. Chính vì vậy C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng, sản xuất của cải vật chất là cơ sở, là điều kiện tiên quyết, tất yếu và vĩnh viễn của sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người.
Ý nghĩa:
Nguyên lý này có ý nghĩa quan trọng trong khoa học xã hội, giúp ta hiểu được nguyên nhân cơ bản trong sự phát triển của nền văn minh nhân loại qua các giai đoạn lịch sử khác nhau đều bắt nguồn từ sự thay đổi của các phương thức sản xuất của cải vật chất. Đồng thời để hiểu được các nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng trong đời sống xã hội ta phải xuất phát từ lĩnh vực sản xuất của cải vật chất, từ các nguyên nhân kinh tế.
Ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cơ cấu kinh tế có sự biến đổi, lĩnh vực sản xuất phi vật thể (dịch vụ) phát triển mạnh mẽ và ở một số quốc gia nó đã và sẽ đóng góp một tỷ trọng lớn trong thu nhập quốc dân. Nhưng nguyên lý trên vẫn còn nguyên ý nghĩa.

Câu 2: Phân biệt lao động và sức lao động? Tại sao phải phát triển nguồn nhân lực để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước?
Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người được sử dụng trong quá trình lao động. Sức lao động khác với lao động. Sức lao động mới chỉ là khả năng của lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực.
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của đời sống xã hội. Lao động là hoạt động đặc trưng nhất, hoạt động sáng tạo của con người, nó khác với hoạt động bản năng của động vật.
T ại sao?
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp cách mạng của quần chúng, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý và công nhân lành nghề đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Trong quá trình phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có đầy đủ nguồn nhân lực về số lượng, đảm bảo về chất lượng và có trình độ cao. Để đáp ứng đòi hỏi đó phải coi trọng con người và đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế. Phải coi việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển; giáo dục và đào tạo phải thật sự trở thành quốc sách hàng đầu. Phải có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nguồn nhân lực, đảm bảo cơ cấu, tốc độ và quy mô phát triển hợp lý, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời, phải bố trí, sử dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo; phải phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của mỗi người để họ tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Câu 3:Trình bày khái quát các yếu tố của quá trình sản xuất?
Ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất: là sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động.
a. Sức lao động: là tổng hợp thể lực và trí lực của con người được sử dụng trong quá trình lao động. Sức lao động là khả năng của lao động.
- Lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực. Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm tọa ra các sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của đời sống XH. Lao động là hoạt động đặc trưng nhất, là hoạt động sáng tọa của con người.
- Nền sản xuất xã hội càng phát triển thì vai trò nhân tố con người càng được tăng lên. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đặt ra những yêu cầu mới đối với sức lao động, đặc biệt khi loài người bước vào nền kinh tế tri thức thì các yêu cầu đó càng trở nên bức thiết, trong đó lao động trí tuệ ngày càng tăng, trở thành đặc trưng chủ yếu nói lên năng lực của con người trong quan hệ với tự nhiên.
b. Đối tượng lao động: là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người tác động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đó là yếu tố vật chất của sản phẩm tương lai. Đối tượng lao động có 2 loại:
- Loại có sẳn trong tự nhiên như khoáng sản, tôm cá, đá, nước…Con người chỉ cần làm cho chúng tách khỏi mối liên hệ trực tiếp với thiên nhiên là có thể sử dụng được. Chúng là đối tượng lao động của các ngành công nghiệp khai thác.
- Loại đã qua chế biến nghĩa là đã có sự tác động của lao động trước đó gọi là nguyên liệu. Loại này thường là đối tượng lao động của các ngành công nghiệp chế biến. Mọi nguyên liệu đều là đối tượng lao động nhưng không phải mọi đối tượng lao động đều là nguyên liệu.
Trong quá trình phát triển của nền SX XH , vai trò của các loại đối tượng lao động dần dần thay đổi. Loại có sẳn, cạn kiệt dần, loại đã qua chế biến ngày càng tăng lên. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang và sẽ tạo ra nhiều vật liệu mới có tính năng mới, có chất lượng tốt hơn, đó là các vật liệu “ nhân tạo”. Song cơ sở của các vật liệu nhân tạo này vẫn có nguồn gốc từ thiên nhiên. Như Petty đã viết: “ Lao động là cha còn đất là mẹ của mọi của cải vật chất”.
c. Tư liệu lao động: là 1 hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu của con người. Tư liệu lao động gồm có:
- Công cụ lao động: là bộ phận trực tiếp tác động vào đối tượng lao động, biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người.
- Bộ phận phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho quá trình SX như: nhà xưởng, kho đường xá, bến cảng, sân bay, điện nước…trong đó hệ thống đường xá, cảng biển, cảng hàng không, các phương tiện giao thông vận tải hiện đại và thông tin liên lạc… được gọi là kết cấu hạ tầng SX.
Trong tư liệu lao động thì công cụ lao động là hệ thống xương cốt và bắp thịt của nền SX, giữ vai trò quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Trình độ của công cụ SX là 1 tiêu chí biểu hiện trình độ phát triển của nền SX XH. Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng SX ra cái gì mà là ở chỗ chúng SX bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào. Tuy nhiên kết cấu hạ tầng SX cũng có vai trò quan trọng.Đặc biệt trong nền SX hiện đại.
Quá trình Sx là quá trình kết hợp của 3 yếu tố SX cơ bản nói trên theo công nghệ nhất định. Trong đó sức lao động giữ vai trò là yếu tố chủ thể còn đối tượng lao động và tư liệu lao động chỉ là yếu tố khách thể của SX. Sự phân biệt giữa đối tượng lao động và tư liệu lao động chỉ có ý nghĩa tương đối. Một vật là đối tượng lao động hay tư liệu lao động là do chức năng cụ thể mà nó đảm nhận gtrong quá trình SX diễn ra. Sự kết hợp đối tượng lao động với tư liệu lao động gọi chung là tư liệu SX. Như vậy quá trình lao động Sx nói 1 cách đơn giản là quá trình kết hợp sức lao động với tư liệu SX để tạo ra của cải vật chất.

Câu 4: Thế nào là tái sản xuất? Sự khác nhau giữa tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng?
Tái sản xuất:
Xã hội không thể ngừng tiêu dung nên không thể ngừng sản xuất. Vì vậy, mọi quá trình sản xuất xét theo tiến trình đổi mới không ngừng thì đồng thời là quá trình tái sản xuất.
Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp lại thường xuyên và phục hồi không ngừng.
Căn cứ theo phạm vi có thể chia tái sản xuất thành tái sản xuất cá biệt và tái sản xuất xã hội.
Căn cứ theo quy mô: có tái sản xuất giản đơn và tía sản xuất mở rộng.
Sự khác nhau giữa tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng:

Tái sản xuất giản đơn
Tái sản xuất mở rộng
1.Quy mô
Là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ
Là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn hơn trước
2. Phạm vi
Gắn với nền sản xuất nhỏ, là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ.
Gắn với nền sản xuất lớn , là đặc trưng của nền sản xuất lớn
3. Đặc điểm
Năn suất lao động thấp, chỉ đạt mức nuôi sống con người, chưa hoặc có rất ít sản phẩm thặng dư, sản phẩm làm ra chủ yếu cho tiêu dùng cá nhân
Năng suất lao động cao, vượt qua ngưỡng cửa sản phẩm tất yếu và tao ra sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều( là nguồn gốc để tích luỹ tái sản xuất mở rộng)
4. Hình thức
Một hình thức là :Tái sản xuất giản đơn
Gồm 2 hình thức: tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng; tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu.

Câu 5: Phân biệt tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu ? Trong nền kinh tế thị trường , chỉ tiêu đánh giá kết quả tái sản xuất xã hội là gì?
Phân biệt:
Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng là sự mở rộng quy mô sản xuất, tăng thêo sản phẩm là ra nhờ sử dụng nhiểu hơn các yếu tố đầu vào, các nguồn lực của sản xuất, trong khi năng suất và hiệu quả của các yếu tố sản xuất đó không thay đổi.
Tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu là sự tăng lên của sản phẩm chủ yếu do tăng năng suất lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực, các nguồn lực sử dụng có thể không thay đổi, giảm hoặc tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhỏ hơn mức tăng của năng suất lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực đó trong sản xuất.
Chỉ tiêu đánh giá kết quả tái sản xuất xã hội:
Trước đây, chỉ tiêu đánh giá kết quả tái sản xuất xã hội là tổng sản phẩm xã hội. Đó là toàn bộ sản phẩm do lao động trong các ngành sản xuất vật chất tạo ra trong một thời kỳ nhất định, thường được tính là một năm. Tổng sản phẩm xã hội được xét cả về mặt hiện vật và giá trị. Về hiện vật, nó bao gồm toàn bộ tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Về giá trị, nó bao gồm giá trị của bộ phận tư liệu sản xuất bị tiêu dùng trong sản xuất và bộ phận giá trị mới, gồm có giá trị của toàn bộ sức lao động xã hội, ngang với tổng số tiền công trả cho người lao động sản xuất trực tiếp và giá trị của sản phẩm thặng dư do lao động thặng dư tạo ra.
Hiện nay, do các ngành sản xuất phi vật thể (dịch vụ) phát triển và ở nhiều nước nó tạo ra nguồn thu nhập ngày càng lớn so với các ngành sản xuất khác, mặt khác, hầu hết các nền kinh tế quốc gia là nền kinh tế mở cửa với bên ngoài, Liên hợp quốc dùng hai chỉ tiêu là: tổng sản phẩm quốc dân (GNP = Gross National Product) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP = Gross Domestic Product) để đánh giá quy mô và tốc độ tăng trưởng của cải vật chất của mỗi quốc gia.
- GNP là tổng giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của mình (dù là sản xuất ở trong nước hay ở nước ngoài) trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
- GDP là tổng giá trị thị trường của toàn bộ hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mà một nước sản xuất ra trên lãnh thổ của mình (dù nó thuộc về người trong nước hay người nước ngoài) trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
So sánh GNP với GDP thì ta có:
GNP = GDP + thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài.
Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài bằng thu nhập của người trong nước làm việc hoặc đầu tư ở nước ngoài chuyển về nước trừ đi thu nhập của người nước ngoài làm việc hoặc đầu tư tại nước đó chuyển ra khỏi nước.
Như vậy, nếu chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc dân phản ánh kết quả cuối cùng của các hoạt động kinh tế của một nước không kể các đơn vị kinh tế của nước đó nằm ở đâu (gồm các đơn vị nằm trên lãnh thổ nước sở tại và nằm trên lãnh thổ của nước khác), thì chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội chỉ phản ánh kết quả cuối cùng của các hoạt động kinh tế nằm trên lãnh thổ nước sở tại (gồm các đơn vị kinh tế của nước sở tại và các đơn vị kinh tế của nước khác nằm trên lãnh thổ nước sở tại).
Quy mô và tốc độ tăng trưởng của cải vật chất phụ thuộc vào quy mô và hiệu quả sử dụng các nguồn lực như: tăng khối lượng lao động (số người lao động, thời gian lao động và cường độ lao động) và tăng năng suất lao động mà thực chất là tiết kiệm lao động quá khứ và lao động sống trong một đơn vị sản phẩm, trong đó tăng năng suất lao động là vô hạn.


Câu 6: Thế nào là tăng trưởng kinh tế? Phân biệt sự khác nhau và mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế?
Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.

Tăng trưởng kinh tế, dưới dạng khái quát, là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong một thời gian nhất định (thường tính cho một năm).
Chỉ tiêu chính biểu hiện mức tăng trưởng kinh tế là tỷ lệ tăng GNP hoặc GDP của thời kỳ sau so với thời kỳ trước theo công thức:
GNP1 - GNP0GNP0 x 100 (%)
hoặc
GDP1 - GDP0GDP0 x 100 (%)
Trong đó:
- GNP0 và GDP0 là tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc nội thời kỳ trước.
- GNP1 và GDP1 là tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc nội thời kỳ sau.
Do có sự biến động của giá cả (lạm phát) nên người ta phân định ra GNP, GDP danh nghĩa và GNP, GDP thực tế. GNP và GDP danh nghĩa là GNP, GDP tính theo giá hiện hành của thời kỳ tính; còn GNP và GDP thực tế là GNP, GDP tính theo giá cố định của một năm được chọn làm gốc. Vì vậy, trong thực tế có tăng trưởng kinh tế danh nghĩa (tính theo GNP, GDP danh nghĩa) và tăng trưởng kinh tế thực tế (tính theo GNP, GDP thực tế).
Cách tính GNP và GDP thực tế:
- GNP thực tế = GNPn (1 - R)
Trong đó:
- GNPn là tổng sản phẩm quốc dân tính theo giá hiện hành của năm tính toán.
- R là chỉ số lạm phát (tính bằng %).
- GDP thực tế = GDPn (1 - R).
Trong đó:
- GDPn là tổng sản phẩm quốc nội tính theo giá hiện hành của năm tính toán.
- R là chỉ số lạm phát (tính bằng %).
Mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế và tăng trưởng kinh tế có quan hệ với nhau, nhưng không đồng nhất với nhau.
Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu, thể chế kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống. Phát triển kinh tế biểu hiện:
Một là, sự tăng lên của GNP, GDP hoặc GNP và GDP tính theo đầu người, tức là sự tăng trưởng kinh tế phải lớn hơn mức tăng dân số. Đồng thời đó phải là sự tăng trưởng kinh tế ổn định và vững chắc.
Hai là, sự thay đổi của cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng của ngành dịch vụ và công nghiệp trong GDP tăng lên còn tỷ trọng của nông nghiệp giảm xuống, nhưng giá trị tuyệt đối của các ngành đều tăng lên. Đó là tính quy luật của quá trình vận động của nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn, hiện đại.
Ba là, chất lượng cuộc sống của đại bộ phận dân cư phải được cải thiện, tăng lên. Muốn vậy, không phải chỉ có GNP (hoặc GDP) theo đầu người tăng lên, mà còn phải phân phối công bằng, hợp lý kết quả tăng trưởng, bảo đảm sự tăng lên của thu nhập thực tế, chất lượng giáo dục, y tế... mà mỗi người dân được hưởng, ổn định lạm phát, ngăn ngừa khủng hoảng nhờ có thể chế kinh tế tiến bộ; chất lượng sản phẩm ngày càng cao; bảo vệ môi trường sinh thái.
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện, tiền đề cho phát triển kinh tế, phát triển kinh tế là động lực đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.


Câu 7: Sản xuất hàng hoá là gì? Phân tích ưu thế của kinh tế hang hoá ? Phân tích điều kiện ra đời và vai trò của sản xuất hang hoá ?
Bài làm:1. Trước hết, để hiểu sản xuất hàng hoá, ta cần hiểu thế nào là kinh tế tự nhiên. Kinh tế tự nhiên là kiểu sản xuất tự cung tự cấp, sản phẩm làm ra nhằm thoả mãn nhu cầu của người trực tiếp sản xuất ra nó. Kiểu sản xuất này gắn liền với nền sản xuất nhỏ, lực lượng lao động phát triển thấp, phân công lao động kém phát triển.Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức sản xuất trong đó sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng nhu cầu của người trực tiếp sản xuất mà đáp ứng nhu cầu của XH thông qua trao đổi mua bán.2. Để sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại cần có hai điều kiện:Thứ nhất là phải có sự phân công lao động XH, tức là có sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao động XH vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác. Sự phân chia lao động XH sẽ làm cho việc trao đổi sản phẩm trở nên tất yếu vì khi đó mỗi người khi đó sẽ chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm trong khi họ có nhu cầu sử dụng nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó, tất yếu dẫn đến trao đổi mua bán. Sự phân công lao động cũng làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến.. Đây là tiền đề, cơ sở cho sản xuất hàng hoá.Thứ hai là phải có sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất về mặt kinh tế, tức là những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất, độc lập nhất định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối. Trong lịch sử, sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định còn trong nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.Đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai điều kiện trên sẽ không có sản xuất hàng hoá.3. So với sản xuất tự cung tự cấp thì sản xuất hàng hoá có những ưu thế hơn hẳn.Do sản xuất hàng hoá dựa trên sự phân công lao động XH, chuyên môn hoá sản xuất nên nó khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sản xuất hàng hoá cũng tác động trở lại làm cho phân công lao động XH, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó, làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của XH được đáp ứng đầy đủ hơn.Trong nền sản xuất hàng hoá, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nguồn lực và nhu cầu của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực XH. Từ đó, tạo điều kiện cho việc ứng dụng những thành tựu KH – KT vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.Trong nền sản xuất hàng hóa, để tồn tại và sản xuất có lãi, người sản xuất phải luôn luôn năng động, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Nhờ đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động tăng, hiệu quả kinh tế ngày càng cao.Sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng, các nước... không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hoá, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.Tóm lại, trong khi sản xuất tự cung tự cấp bị giới hạn bởi như cầu và nguồn lực cá nhân, gia đình, quy mô sản xuất nhỏ, không tạo được động lực thúc đẩy sản xuất phát triển thì sản xuất hàng hoá lại tạo được động lực sản xuất phát triển, làm cho sản xuất phù hợp với nhu cầu, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mỗi cá nhân và toàn XH.

Câu 8 : Hàng hoá là gì? phân tích 2 thuộc tính của hang hoá? Vì sao hang hoá có 2 thuộc tính?
Bài làm:1. Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi buôn bán.Hàng hoá có thể ở dạng hữu hình như sắt, thép, thực phẩm... hay vô hình như dịch vụ, giao thông vận tải... nhưng dù ở dạng nào nó cũng có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.2. Hai thuộc tính của hang hoá:
Giá trị sử dụng là công dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Hàng hoá nào cũng có một hay một vài công dụng và cộng dụng đó làm nó có giá trị sử dụng. Ví dụ như gạo là dùng để ăn, giá trị sử dụng của gạo là để ăn... Giá trị sử dụng của hàng hoá là do thuộc tín tự nhiên (Lý, hoá, sinh) của thực thể hàng hoá đó quy định nhưng việc phát hiện ra những thuộc tính có ích đó lại phụ thuộc vào sự phát triển của XH, của con người. XH càng tiến bộ, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng ngày càng phong phú và chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.Giá trị sử dụng là giá trị sử dung XH. Nó không phải là giá trị sử dụng cho người trực tiếp sản xuất mà là cho XH thông qua trao đổi mua bán. Do đó, người sản xuất phải luôn quan tâm đến như cầu của XH, làm cho sản phẩm của họ phù hợp với nhu cầu XH.Giá trị sử dụng mang trên mình giá trị trao đổi.Giá trị hang hoá :Để hiểu giá trị của hàng hoá, trước hết, ta phải hiểu giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Ví dụ như: 1m vải có giá trị trao đổi bằng 5 kg thóc.Hai hàng hoá khác nhau như vậy có thể trao đổi với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung. Lao động hao phí tạo ra hàng hoá chính là cơ sở chung cho việc trao đổi đó và tạo ra giá trị của hàng hoá. Vậy giá trị của hàng hoá là lao động XH của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong sản phẩm. Giá trị trao đổi là biểu hiện bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung bên trong, là cơ sở của giá trị trao đổi.Giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá.4. Hai thuộc tính đó của hàng hoá vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất. Chúng thống nhất ở chỗ: chúng cùng tồn tại trong hàng hoá, một hàng hoá phải có hai thuộc tính này, thiếu một trong hai thuộc tính thì không phải là hàng hoá. Tuy nhiên, chúng mâu thuẫn ở hai điểm: thứ nhất, về một giá trị sử dụng thì hàng hoá khác nhau về chất còn về mặt giá trị thì hàng hoá lại giống nhau về chất; Thứ hai, giá trị được sử dụng trong quá trình lưu thông còn giá trị sử dụng được thực hiện trong quá trình tiêu dùng.5.Quan hệ của hai thuộc tính này với tính 2 mặt của quá trình sản xuất?
Hai thuộc tính của hàng hoá này không phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong hàng hoá mà là do lao động sản xuất hàng hoá có tính chất hai mặt, vừa có tính trừu tượng (lao động trừu tượng), vừa có tính cụ thể (lao động cụ thể).Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Do đó, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá.Nếu phân công lao động XH càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của XH.Lao động trừu tượng chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hoá nói chung. Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá tạo ra giá trị của hàng hoá. Ta có thể nói, giá trị của hàng hoá là lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hoá. Đây chính là mặt chất của giá trị hàng hoá

Câu 9: Hiểu thế nào về tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hang hoá ?
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Hàng hóa có hai thuộc tính không phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà là do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt: vừa mang tính chất cụ thể (lao động cụ thể), lại vừa mang tính chất trừu tượng (lao động trừu tượng). C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.
a) Lao động cụ thể
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, lao động của người thợ may và lao động của người thợ mộc là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ may có mục đích là làm ra quần áo chứ không phải là bàn ghế; còn phương pháp là may chứ không phải là bào, cưa; có công cụ lao động là kim, chỉ, máy may chứ không phải là cái cưa, cái bào...; và lao động của người thợ may thì tạo ra quần áo để mặc, còn lao động của người thợ mộc thì tạo ra ghế để ngồi... Điều đó có nghĩa là: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Nếu phân công lao động xã hội càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
b) Lao động trừu tượng
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung.
Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Như vậy, có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa.
Như trên đã chỉ ra, mỗi người sản xuất hàng hoá sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động đó mang tính chất tư nhân, và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.
Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng hóa là lao động xã hội vì nó là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hóa. Họ làm việc cho nhau, thông qua trao đổi hàng hóa. Việc trao đổi hàng hóa không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy lao động cụ thể về lao động chung đồng nhất - lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau. Mâu thuẫn đó được biểu hiện cụ thể trong hai trường hợp sau:
- Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể không ăn khớp với nhu cầu của xã hội (hoặc không đủ cung cấp cho xã hội hoặc vượt quá nhu cầu của xã hội...). Khi sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, sẽ có một số hàng hóa không bán được, tức không thực hiện được giá trị.
- Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn so với mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận, khi đó hàng hóa cũng không bán được hoặc bán được nhưng không thu hồi đủ chi phí lao động bỏ ra.
Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hoá. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hoá vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.

Câu 10: Phân tích lượng giá trị hang hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hang hoá?
Bài làm:1. Giá trị của hàng hoá là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá. Vậy lượng lao động của hàng hoá được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá đó và tính bằng thời gian lao động.Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một hàng hoá nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề khác nhau... làm cho thời gian lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó là khác nhau, tức là mức hao phí lao động cá biệt khác nhau. Nhưng lượng giá trị của hàng hoá không do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định mà do thời gian lao động XH cần thiết. Thời gian lao động XH cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá nào đó trong điều kiện bình thường của XH với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong XH đó. Vậy, thực chất, thời gian lao động XH cần thiết là mức hao phí lao động XH trung bình (thời gian lao động XH trung bình) để sản xuất ra hàng hoá. Thời gian lao động XH cần thiết có thể thay đổi. Do đó, lượng giá trị của hàng hoá cũng thay đổi.2. Có ba nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hoá.Thứ nhất, đó là năng suất lao động. Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được đo bằng số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên tức là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm giảm xuống, tức là giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm và ngược lại. Vậy, giá trị của hàng hoá tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Mặt khác, năng suất lao động lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, trình độ trung bình của người công nhân, mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, quy mô sản xuất... nên để tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.Thứ hai, đó là cường độ lao động. Cường độ lao động phản ánh mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thăng của lao động. Cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hoá sản xuất ra tăng lên và sức lao động hao phí cũng tăng lên tương ứng. Do đó, giá trị của một đơn vị hàng hoá là không đổi vì thực chất tăng cường độ lao động chính là việc kéo dài thời gian lao động. Cường độ lao động phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và đặc biệt là thể chất và tinh thần của người lao động. Chính vì vậy mà tăng cường độ lao động không có ý nghĩa tích cực với sự phát triển kinh tế bằng việc tăng năng suất lao động.Thứ ba là mức độ phức tạp của lao động. Theo đó, ta có thể chia lao động thành hai loại là lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động bình thường nào không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được. Còn lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể thực hiện được. Trong cùng một thời gian lao động thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn bởi vì thực chất lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân lên. Trong quá trinh trao đổi mua bán, lao động phức tạp được quy đổi thành lao động giản đơn trung bình một cách tự phát.

Câu 11: Cho biết nguồn gốc và bản chất của tiền? Tiền có những chức năng gì ? Vì sao tiền là hang hoá đặc biệt?
Bài làm:1. Nguồn gốc của tiền tệ.Để tìm hiểu nguồn gốc của tiền tệ, ta hãy xem xét quá trình phát triển của các hình thái biểu hiện của giá trị:Đầu tiên là hình thái giản đơn, ngẫu nhiên của giá trị. Hình thái này xuất hiện khi xã hội nguyên thủy tan rã và chỉ thường gặp ở những mầm mống đầu tiên của trao đổi. Ở đây, giá trị của hàng hoá này chỉ biểu hiện đơn nhất ở một hàng hoá khác và quan hệ trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, trực tiếp hàng lấy hàng, tỷ lệ trao đổi được hình thành ngẫu nhiên. Ví dụ như 20 vuông vải = 1 cái áo. Cái áo ở đây đóng vai trò vật ngang giá – hình thái phôi thai của tiền tệ.Khi quan hệ trao đổi trở thành quá trình đều đặn, thường xuyên, thúc đẩy sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển thì hình thái thứ hai là hình thái đầy đủ hay mở rộng của hàng hoá ra đời. Hình thái này xuất hiện trong thực tế khi một hàng hoá nào đó được trao đổi với nhiều hàng hoá khác một cách thông thường phổ biến. Ở đây, giá trị của hàng hoá được biểu hiện ở nhiều hàng hoá khác nhau đóng vai trò làm vật ngang giá. Đồng thời tỷ lệ trao đổi không còn mang tính chất ngẫu nhiên nữa mà dần dần do lao động quy định. Tuy nhiên, ở hình thái này, giá trị của hàng hoá được biểu hiện còn chưa hoàn tất, thống nhất và vẫn trao đổi trực tiếp hàng – hàng. Ví dụ như 20 vuông vải = 1 cái áo, = 10 đấu chè, = 40 đấu cà phê, = 0,2 gam vàng...Do đó, khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển hơn, đòi hỏi phải có vật ngang giá chung, hình thái thứ ba xuất hiện: Hình thái chung của giá trị. Ở hình thái này, giá trị của mọi hàng hoá được biểu hiện ở một hàng hoá đóng vai trò làm vật ngang giá chung – “vật ngang giá phổ biến”. Các hàng hoá đều đổi thành vật ngang giá chung, sau đó mới mang đổi lấy hàng hoá cần dùng. Vật ngang giá chung trở thành môi giới. Tuy nhiên, ở hình thái này, bất kỳ hàng hoá nào cũng có thể trở thành vật ngang giá chung, miễn là nó được tách ra làm vật ngang giá chung. Ví dụ như 1 cái áo hoặc 10 đấu chè hoặc 40 đấu cà phê hoặc 0,2 gam vàng = 20 vuông vải.Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển hơn nữa, đặc biệt là khi mở rộng giữa các vùng đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung thông nhất thì hình thái thứ tư ra đời: hình thái tiền. Giá trị của tất cả các hàng hoá ở đây đều được biểu hiện ở một hàng hoá đóng vai trò tiền tệ. Lúc đầu có nhiều hàng hoá đóng vai trò tiền tệ nhưng dần dần được chuyển sang các kim loại quý như đồng, bạc và cuối cùng là vàng. Ví dụ như: 10 vuông vải hoặc 1 cái áo hoặc 10 đấu chè = 0.02 gam vàng.Như vậy, tiền ra đời là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá.2. Bản chất của tiền:Tiền là một loại hàng hoá đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các loại hàng hoá. Nó là sự thể hiện chung của giá trị, đồng thời nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá.3. Tiền có 5 chức năng. Nó là thước đo giá trị, là phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán và tiền tệ thế giới.Trước hết, tiền là thước đo giá trị, tức là nó dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hoá khác. Khi đó, giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hoá là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả hàng hoá có thể lên xuống xung quanh giá trị nhưng tổng số giá cả luôn bằng giá trị.Tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hoá, tức là tiền đóng vai trò là một phương tiện lưu thông. Khi ấy, trao đổi hàng hoá vận động theo công thức H – T – H’. Đây là công thức lưu thông hàng hoá giản đơn. Với chức năng này, tiền xuất hiện dưới các hình thức vàng thoi, bạc nén, tiền đúc và cuối cùng là tiền giấy. Tiền giấy là ký hiệu giá trị do nhà nước phát hành buộc XH công nhận. Tiền giấy không có giá trị thực (không kể đến giá trị của vật liệu giấy dùng làm tiền). Khi thực hiện chức năng này, tiền giúp quá trình mua bán diễn ra dễ dàng hơn nhưng nó cũng làm việc mua bán tách rời nhau cả về không gian lẫn thời gian nên nó bao hàm khả năng khủng hoảng.Tiền đôi khi được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại để khi cần thì đem ra mua hàng. Chỉ có tiền vàng, tiền bạc, các của cải bằng vàng có giá trị thực mới thực hiện được chức năng lưu trữ. Ngoài ra, tiền làm phương tiện cất trữ còn có tác dụng đặc biệt là dự trữ tiền cho lưu thông.Khi kinh tế hàng hoá phát triển đến một mức độ nào đó tất yếu sẽ sinh ra mua bán chịu và tiền có thêm chức năng phương tiện thanh toán như trả nợ, đóng thuế... Tiền làm phương tiện thanh toán có tác dụng đáp ứng kịp thời như cầu của người sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả khi họ chưa có tiền hoặc không đủ tiền. Nhưng nó cũng làm cho khả năng khủng hoảng tăng lên. Trong quá trình thực hiện chức năng thanh toán, loại tiền mới - tiền tín dụng - xuất hiện, có nghĩa là hình thức tiền đã phát triển hơn.Chức năng cuối cùng của tiền là tiền tệ thế giới. Chức năng này xuất hiện khi buôn bán vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hình thành quan hệ buôn bán giữa các nước. Khi thực hiện chức năng này, tiền thực hiện các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, tín dụng, di chuyển của cải từ nước này sang nước khác. Thực hiện trức năng này phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Việc trao đổi tiền của nước này sang tiền của nước khác tuân theo tỷ giá hổi đoái, tức là giá cả của một đồng tiền nước này được tính bằng đồng tiền của nước khác.Tóm lại, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá, tiền có 5 chức năng. Những chức năng này có quan hệ mật thiết và thông thường tiền làm nhiều chức năng một lúc.

Câu 12: Phân tích nội dung (yêu cầu), tác dụng của quy luật giá trị?Biểu hiện trong các giai đoạn phát triển của CNTB?
Bài làm:1. Quy luật giá trị là quy luật giá trị cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá trị hàng hoá của nó, tức là trên cơ sở hao phí lao động XH cần thiết.Trong sản xuất, quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động XH cần thiết. Còn trong trao đổi hay lưu thông thì phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá. Trao đổi mua bán hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng giá trị. Giá cả hàng hoá trên thị trường có thể bằng hoặc dao động lên xuống xung quanh giá trị hàng hoá nhưng xét trên phạm vi toàn XH thì tổng giá cả bằng tổng giá trị.2. Trong nền sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị có ba tác động sau:Thứ nhất, nó điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Khi một hàng hoá có giá cả cao hơn giá trị, bán có lãi, người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư tư liệu sản xuất và sức lao động, đồng thời những người sản xuất các hàng hoá khác có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này. Còn nếu mặt hàng đó có giá cả thấp hơn giá trị, bị lỗ vốn thì người sản xuất phải thu hẹp sản xuất hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác. Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu xã hội. Đồng thời, nó còn thu hút hàng hoá từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, góp phần làm cho hàng hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.Quy luật giá trị cũng kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm... Bởi vì trong sản xuất hàng hoá, để tồn tại và có lãi, mọi người sản xuất đều phải tìm làm cho mức hao phí lao động cá biệt của mình thấp hơn hoặc bằng mức lao động xã hội cần thiết. Cuộc canh tranh càng khiến cho những người sản xuất tích cực cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động... mạnh mẽ hơn. Mọi người sản xuất đều làm như vậy sẽ làm cho năng suất lao động của toàn xã hội tăng lên, sản xuất ngày càng phát triển.Tuy nhiên, quy luật giá trị cũng tự phát phân hoá người sản xuất ra thành người giàu và người nghèo. Người sản xuất nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động XH cần thiết sẽ thu được nhiều lãi và giàu lên, mở rộng sản xuất, thậm chí trở thành ông chủ thuê nhân công. Còn những người sản xuất có mức hao phí lao động cá biệt cao hơn mức hao phí lao động XH cần thiết sẽ thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản và trở thành công nhân làm thuê.Vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực. Chúng ta cần phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó.3.Những biểu hiện của quy luật này trong các giai đoạn phát triển của CNTB
Trong giai đoạn sản xuất tư bản chủ nghĩa tự do cạnh tranh, giá trị hàng hoá trở thành giá cả sản xuất. Giá trị là cơ sở của giá cả sản xuất. Khi giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất thì quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất.Còn trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, do nắm được vị trí thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các tổ chức có khả năng định ra giá cả độc quuyền. Giá cả độc quyền là giá cả hàng hoá có sự chênh lệch rất lớn so với giá cả sản xuất. Tuy nhiên, cơ sở của giá cả độc quyền vẫn là giá trị và tổng giá cả độc quyền vẫn bằng tổng giá trị. Khi đó, quy luật giá trị biểu hiện ra thành quy luật giá cả độc quyền

Câu 13: Khi nào tiền chuyển thành tư bản? Điều kiện ra đời và đặc điểm của hang hoá sức lao động?
Bài làm:
1. Điều kiện để tiền chuyển thành tư bản:
Tiền trong lưu thông hàng hoá giản đơn vận động theo công thức: H – T – H’, tức là bắt đầu bằng hành vi bán (H - T) và kết thúc bằng hành vi mua (T – H), kết thúc đều bằng hàng hoá , tiền chỉ đóng vai trò trung gian, mục đích là giá trị sử dụng.Còn tiền trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động theo công thức: T – H – T’. Ở đây, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng hành vi mua (T – H), kết thúc bằng hành vi bán (H – T’), tiền là điểm xuất phát cũng là điểm kết thúc, hàng hoá chỉ đóng vai trò trung gian. Mục đích của lưu thông tư bản là giá trị và giá trị cao hơn. Điều đó có nghĩa là T’ lớn hơn T: T’ = T + t. t là phần trội thêm và được gọi là giá trị thặng dư (m). Số tiền ứng ra ban đầu (T) trở thành tư bản.Vậy, tiền chỉ trở thành tư bản khi nó được dùng để đem lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản. T – H – T’ là công thức chung của tư bản vì mọi tư bản đều vận động như vậy để đem lại giá trị thặng dư.
2 Sức lao động là tổng hợp toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào sản xuất.Trong mọi xã hội, sức lao động đều là yếu tố của sản xuất nhưng sức lao động chỉ trở thành hàng hoá sức lao động khi có hai điều kiện sau:Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể của mình, có khả năng chi phối sức lao động ấy và chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất địnhThứ hai, người lao động không còn có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình thực hiện lao động và cũng không có của cải gì khác, muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.3. Cũng như mọi loại hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.Giá trị của hàng hoá sức lao động cũng do số lượng lao động XH cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Do việc sản xuất và tái sản xuất sức lao động được diễn ra thông qua quá trình tiêu dùng, sinh hoạt, giá trị sức lao động được quy ra thành giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động, để duy trì đời sống công nhân và gia đình họ cũng như chi phí đào tạo công nhân có một trình độ nhất định. Tuy nhiên, giá trị hàng hoá sức lao động khác hàng hoá thông thường ở chố nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử của từng nước, từng thời kỳ...Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng nhằm thoả mãn nhu cầu của người mua để sử dụng trong quá trình sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, khác với hàng hoá thông thường, trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn lượng giá trị của bản thân nó, phần dôi ra đó chính là giá trị thặng dư. Đây là đặc điểm riêng của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động.

Câu 14: Mối quan hệ giữa giá trị sức lao động với tiền công trong chủ nghĩa tư bản?
Tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, là giá cả của hàng hóa sức lao động,
Tuy vậy, dễ có sự lầm tưởng, trong xã hội tư bản, tiền công là giá cả của lao động. Bởi vì: thứ nhất, nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã lao động để sản xuất ra hàng hóa; thứ hai, tiền công được trả theo thời gian lao động (giờ, ngày, tuần, tháng), hoặc theo số lượng hàng hóa đã sản xuất được.Thứ ba, đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có tiền sinh sống, do đó bản than công nhân cũng tưởng rằng mình bán lao đông. Còn đối với nhà tư bản bỏ tiền ra để có lao động, nên cũng nghĩ rằng cái họ mua là lao động.
Cái mà nhà tư bản mua của công nhân không phải là lao động, mà là sức lao động. Tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động, mà chỉ là giá trị hay giá cả của hàng hóa sức lao động.
Tiền công đã che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao động được trả công và lao động không được trả công,do vậy tiền công đã che đậy mất bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

Câu 15: Giá trị thặng dư là gì, Nó được sản xuất ra như thế nào? Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư?
1.Quá trình sản xuất giá trị thặng dư
Mục đích của nhà tư bản ứng ra một số tiền mua tư liệu sản xuất và sức lao động là để tạo ra giá trị thặng dư.
Quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hóa sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất giá trị thặng dư có hai đặc điểm: một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản; hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Làm thế nào nhà tư bản có được giá trị thặng dư?
Giả sử, để chế tạo ra 1 kg sợi, nhà tư bản phải ứng ra số tiền 20 ngàn đơn vị tiền tệ mua 1 kg bông, 3 ngàn đơn vị cho hao phí máy móc và 5 ngàn đơn vị mua sức lao động của công nhân điều khiển máy móc trong 1 ngày (10 giờ). Giả định việc mua này đúng giá trị, mỗi giờ lao động sống của công nhân tạo ra giá trị mới kết tinh vào sản phẩm là 1000 đơn vị.
Trong quá trình sản xuất, bằng lao động cụ thể, công nhân sử dụng máy móc để chuyển 1 kg bông thành 1 kg sợi, theo đó giá trị của bông và hao mòn máy móc cũng được chuyển vào sợi. Giả định chỉ trong 5 giờ công nhân đã kéo xong 1 kg bông thành 1 kg sợi, thì giá trị 1 kg sợi được tính theo các khoản như sau:
+ Giá trị 1 kg bông chuyển vào = 20.000 đơn vị
+ Hao mòn máy móc = 3.000 đơn vị
+ Giá trị mới tạo ra (trong 5 giờ lao động, phần này vừa đủ bù đắp giá trị sức lao động) = 5.000 đơn vị
Tổng cộng = 28.000 đơn vị
Nếu quá trình lao động ngừng ở đây thì nhà tư bản chưa có được giá trị thặng dư.
Thời gian lao động (5 giờ) mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với giá trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động tất yếu và lao động trong khoảng thời gian ấy gọi là lao động tất yếu.
Nhưng nhà tư bản đã mua sức lao động trong 1 ngày với 10 giờ, chứ không phải 5 giờ (Hợp đồng lao động giữa nhà tư bản và công nhân tính theo ngày công 10 giờ nên nhà tư bản có quyền sử dụng sức lao động của công nhân trong 10 giờ). Trong 5 giờ lao động tiếp, nhà tư bản chi thêm 20.000 đơn vị để mua 1 kg bông và 3.000 đơn vị hao mòn máy móc và với 5 giờ lao động sau, người công nhân vẫn tạo ra 5.000 đơn vị giá trị mới và có thêm 1 kg sợi với giá trị 28.000 đơn vị. Tổng số tiền nhà tư bản chi ra để có được 2 kg sợi sẽ là:
+ Tiền mua bông: 20.000 x 2 = 40000 đơn vị
+ Hao mòn máy móc (máy chạy 10 tiếng):
3.000 x 2 = 6.000 đơn vị
+ Tiền lương công nhân sản xuất cả ngày (trong 10 giờ, tính theo đúng giá trị sức lao động) = 5.000 đơn vị
Tổng cộng = 51.000 đơn vị
Tổng giá trị của 2 kg sợi là: 2 kg x 28000 = 56.000 đơn vị và như vậy, lượng giá trị thặng dư thu được là: 56.000 - 51.000 = 5.000 đơn vị.
Thời gian lao động (5 giờ) để tạo ra giá trị thặng dư gọi là thời gian lao động thặng dư, và lao động trong thời gian ấy gọi là lao động thặng dư.
Từ thí dụ trên đây ta kết luận:
Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. C. Mác viết: "Bí quyết của sự tự tăng thêm giá trị của tư bản quy lại là ở chỗ tư bản chi phối được một số lượng lao động không công nhất định của người khác"1. Sở dĩ nhà tư bản chi phối được số lao động không công ấy vì nhà tư bản là người sở hữu tư liệu sản xuất.
Việc nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư do quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra gọi là bóc lột giá trị thặng dư.
Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư (m’) là tỷ lệ phần trăm giữa số lượng giá trị thặng dư (m) với tư bản khả biến (v) và được tính bằng công thức:
m' = mv x 100 %
Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư còn có dạng:
m' = t't x 100 %
Trong đó: - t là thời gian lao động tất yếu - t' là thời gian lao động thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê.
Khối lượng giá trị thặng dư (M) là số lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được trong một thời gian sản xuất nhất định và được tính bằng công thức:
M = m' . V hoặc M = mv x V (1)
Trong đó: V là tổng tư bản khả biến được sử dụng trong thời gian trên.
Khối lượng giá trị thặng dư tỷ lệ thuận với cả hai nhân tố m' và V.

Câu 16: Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư dưới CNTB?
Bài làm
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối dưới chủ nghĩa tư bản.Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.Ta hãy xét một ví dụ:Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động cần thiết (t) là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư (t’) là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị thì giá trị thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là:m’ = (t/t’) . 100% = 4/4 . 100% = 100%Nhưng nếu ta kéo dài ngày lao động thêm 2 tiếng thì t vẫn bằng 4 giờ nhưng thời gian lao động thặng dư lức này lại là t’= 6. Do đó, giá trị thặng dư tuyệt đối sẽ là 60 đơn vị và tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:m’ = 6/4 . 100% = 150%Do việc tăng thời gian lao động không thể vượt quá giớ hạn sinh lý của công nhân nên khi thời gian lao động không thể kéo dài thêm được nữa, nhà tư bản sẽ tìm cách tăng cường độ lao động. Về thực chất thì tăng cường độ lao động cũng tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì vậy, tăng thời gian lao động hoặc tăng cường độ lao động là để sản xuất ra giá trị thăng dư tuyệt đối.

Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối dưới chủ nghĩa tư bản.Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó mà tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ.Ta hãy xét một ví dụNgày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là thời gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao đông thặng dư. Nhờ tăng năng suất lao động trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt, giá cả sinh hoạt rẻ hơn dẫn đến giá trị sức lao động cũng bị hạ thấp. Giả sử giá trị sức lao động giảm đi 1 giờ. Khi đó thời gian lao động tất yếu chỉ còn 4 giờ và thời gian lao động thặng dư tăng lên thành 6 giờ. Khi đó, tỷ suất giá trị thặng dư tăng từ 100% lên 150%.Như vậy, bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất phục vụ cho ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt mà giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết cho công nhân giảm đi, kéo theo giá trị sức lao động của người lao động giảm đi và đem lại giá trị thặng dư tương đối cho nhà tư bản mà không phải tăng thời gian lao động hay cường độ lao động.

Câu 17: Tư bản bất biến và tư bản khả biến và vai trò của chúng?
Tư bản bất biến: giá trị của tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người công nhân chuyển vào sản phẩm mới, lượng giá trị của chúng không đổi. Bộ phận tư bản ấy gọi là tư bản bất biến, ký hiệu bằng c
¯ Tư bản khả biến: bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã có sự biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất. Bộ phận tư bản này được gọi là tư bản khả biến và ký hiệu bằng v.
Bản chất: là một bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức sức lao động, trong quá trình SX tăng lên về lượng giá trị do thuộc tính giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động quy định, tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. (kí hiệu: V_Variable).
Để sản xuất giá trị thặng dư, nhà tư bản phải ứng trước tư bản ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động. Vậy các bộ phận khác nhau đó của tư bản có vai trò như thế nào trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư?
Trước hết xét bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất. Trong quá trình sản xuất, giá trị của tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người công nhân chuyển vào sản phẩm mới, và lượng giá trị của chúng không đổi so với trước khi đưa vào sản xuất. Bộ phận tư bản này được gọi là tư bản bất biến, ký hiệu là c.
Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động thì lại khác. Một mặt, giá trị của nó biến thành các tư liệu sinh hoạt của người công nhân và biến đi trong tiêu dùng của công nhân. Mặt khác, trong quá trình sản xuất, bằng lao động trừu tượng, người công nhân tạo ra giá trị mới không những đủ bù đắp sức lao động của mình, mà còn có giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do vậy, bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã có sự biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất. Bộ phận tư bản này được gọi là tư bản khả biến, ký hiệu là v.
Như vậy, tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định ttrong quá trình đó, vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên.

Câu 18: Chứng minh rằng sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của CNTB?
Nếu quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa là quy luật giá trị thì quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là quy luật giá trị thặng dư.
Thật vậy, giá trị thặng dư, phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ bản chất của chủ nghĩa tư bản – quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân tạo ra là nguồn làm giàu của các nhà tư bản.
Mục đích của sản xuất TBCN không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên . Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đíchvà động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố gắng sản xuất ra hànghoá vớichất lượng tốt đi chăng nữa thì đó cũng chỉ vì nhà tư bản muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.
Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất TBCN, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn để đạt được mục đích đó: tăng cường bóc lột công nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.
CNTB ngày nay đã có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, quản lí và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của CNTB tư nhân vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của CNTB vẫn không thay đổi. Nhà nước dù có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế và xã hội nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản.
Như vậy,quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản bởi vì nó quy định bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, chi phối mọi mặt đời sống kinh tế của xã hội tư bản. Không có sản xuất giá trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư bản. Theo C. Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. ở đâu có sản xuất giá trị thặng dư thì ở đó có chủ nghĩa tư bản, ngược lại, ở đâu có chủ nghĩa tư bản thì ở đó có sản xuất giá trị thặng dư. Chính vì vậy, Lênin gọi quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.

Câu 19: Phân biệt tư bản bất biến, tư bản khả biến với tư bản cố định và tư bản lưu động? Căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia trên?
Tư bản bất biến
KN: Tư bản bất biến: giá trị của tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người công nhân chuyển vào sản phẩm mới, lượng giá trị của chúng không đổi. Bộ phận tư bản ấy gọi là tư bản bất biến, ký hiệu bằng c
Bản chất: là 1 bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu SX bao gồm nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ….Trong quá trình SX giá trị của nó được bảo tồn và chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm mới tức là không tăng lên về lượng giá trị. Vậy tư bản bất biến là tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu SX, giá trị của nó không biến đổi về lượng. (kí hiệu C_Constant)
Tư bản khả biến
¯ KN: Tư bản khả biến: bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã có sự biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất. Bộ phận tư bản này được gọi là tư bản khả biến và ký hiệu bằng v.
Bản chất: là một bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức sức lao động, trong quá trình SX tăng lên về lượng giá trị do thuộc tính giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động quy định, tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. (kí hiệu: V_Variable).
Căn cứ phân chia: căn cứ vào tính chất hai mặt của sản xuất hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị. Mác khẳng định rằng lao động cụ thể chỉ bảo toàn và di chuyển giá trị cũ vào trong giá trị mới, nó không tạo ra giá trị mới còn lao động trù tượng là sự hao phí thể lực trí lực mới làm cho giá trị hàng hoá tăng lên.
Ý nghĩa phân chia: vạch rõ được bản chất của chủ nghĩa tư bản là quá trình bốc lột giá trị thặng dư của người lao động, của nông nhân lao động để làm giàu. Phản ánh mối quan hệ nói trên. Tư bản bất biến là điều kiện tiền đề cho việc tạo ra giá trị thặng dư và giá trị. Tư bản khả biến tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản.
Tư bản cố định: là bộ phận chủ yếu của tư bản SX ( máy móc, thiết bị, nhà xưởng…) tham gia toàn bộ vào quá trình SX, nhưng giá trị của nó không chuyển hết 1 lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong tgian SX. TB cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ SX và nó bị hao mòn dần trong quá trình SX.
Tư bản lưu động: là 1 bộ phận của tư bản SX ( nguyên liệu, nhiên liệu, vật phụ liệu, sức lao động…) được tiêu dùng hoàn toàn trong 1 chu kỳ SX và giá trị của nó được chuyển toàn bộ vào sản phẩm trong quá trình SX. TB lưu động chu chuyển nhanh hơn TB cố định.
Căn cứ của việc phân chia 2 cặp phạm trù trên:
Việc phân chia dựa vào vai trò của từng bộ phận tư bản trong quá trình SX ra giá trị thặng dư. Ở đây việc phân chia còn dựa vào phương thức chuyển dịch giá trị của chúng vào sản phẩm trong quá trình sản xuất, hay dựa vào tính chất chu chuyển của tư bản.
Phân chia tư bản theo hình thức của sự chu chuyển:
Tư bản cố định: C1 Tư bản bất biến
C2
Tư bản lưu động: V Tư bản khả biến
( C1: giá trị máy móc, thiết bị, nhà xưởng…
C2: giá trị nguyên, nhiên, vật liệu….
V: giá trị sức lao động. )

Câu 20: Phân tích chu chuyển của tư bản? Các biện pháp nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản?
Chu chuyển của tư bản là sự tuần hoàn của tư bản nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới, và lặp đi lặp lại không ngừng. Chu chuyển của tư bản nói lên tốc độ vận động của tư bản cá biệt.
a) Thời gian chu chuyển của tư bản
Thời gian tư bản thực hiện được một vòng tuần hoàn gọi là thời gian chu chuyển của tư bản.
Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.
Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm ở trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian sản xuất bao gồm: thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất. Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của các nhân tố sau:
- Tính chất của ngành sản xuất, như ngành đóng tàu thời gian sản xuất nhất định phải dài hơn ngành dệt vải; dệt thảm trơn thời gian ngắn hơn dệt thảm trang trí hoa văn.
- Quy mô hoặc chất lượng các sản phẩm, như xây dựng một xí nghiệp mất thời gian dài hơn xây dựng một nhà ở thông thường
- Thời gian vật sản xuất chịu tác động của quá trình tự nhiên dài hay ngắn.
- Năng suất lao động.
- Dự trữ sản xuất đủ hay thiếu.
- v.v..
Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không sản xuất ra hàng hóa, cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán hàng hóa. Thời gian lưu thông dài hay ngắn là do các nhân tố sau đây quy định: thị trường xa hay gần, tình hình thị trường xấu hay tốt, trình độ phát triển của ngành giao thông vận tải...
Thời gian chu chuyển của tư bản càng ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng dư được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.
b) Tốc độ chu chuyển của tư bản
Các tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thì số lần chu chuyển trong một đơn vị thời gian (một năm) không giống nhau, nói cách khác, tốc độ chu chuyển của chúng khác nhau.
Tốc độ chu chuyển của tư bản đo bằng số lần (vòng) chu chuyển của tư bản trong một năm.
Ta có công thức tính tốc độ chu chuyển của tư bản như sau:
n =TGnTGa
Trong đó:
n: Số lần chu chuyển của tư bản trong 1 năm.
TGn: Thời gian trong năm.
TGa: Thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định
Như vậy, tốc độ chu chuyển của tư bản tỉ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản. Muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của nó.
Lực lượng sản xuất phát triển, kỹ thuật tiến bộ, những tiến bộ về mặt tổ chức sản xuất, việc áp dụng những thành tựu của hoá học, sinh học hiện đại vào sản xuất, phương tiện vận tải và bưu điện phát triển, tổ chức mậu dịch được cải tiến... cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của tư bản, do đó, tăng tốc độ chu chuyển của tư bản.

Câu 21: So sánh chi phí sản xuất TBCN với chi phí sản xuất thực tế của xã hội để sản xuất hang hoá? Giá trị thặng dư với lợi nhuận? Tỷ suất giá trị thặng dư với tỷ suất lợi nhuận?
1.So sánh:
Nếu gọi giá trị hàng hóa là W, thì W = c + v + m. Đó chính là những chi phí lao động thực tế của xã hội để sản xuất hàng hóa. Nhưng đối với nhà tư bản, để sản xuất hàng hóa, họ chỉ cần chi phí một lượng tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Chi phí đó gọi là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, được ký hiệu là k.
k = c + v
Vậy, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị bù lại giá cả của những tư liệu sản xuất và giá cả sức lao động đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa cho nhà tư bản.
Nếu dùng k để chỉ chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì công thức W = c + v + m sẽ chuyển hoá thành: W = k + m.
Giữa chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và giá trị hàng hóa có sự khác nhau cả về chất và về lượng.
Về chất, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ là sự chi phí về tư bản; còn giá trị hàng hóa là sự chi phí thực tế của xã hội để sản xuất ra hàng hóa.
Chi phí thực tế là chi phí về lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa.
Về lượng, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí thực tế, tức là giá trị của hàng hóa, vì rằng W = k + m thì k = W - m.
Đối với nhà tư bản, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là giới hạn thực tế của lỗ lãi kinh doanh nên họ ra sức "tiết kiệm" chi phí sản xuất này bằng mọi cách.
2. Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, nên sau khi bán hàng hoá theo đúng giá trị, nhà tư bản không chỉ bù lạiđủ số tiền đã ứng ra, mà còn thu được một số tiền lời ngang bằng m. Số tiền lời này gọi là lợi nhuận, ký hiệu là p.
Lợi nhuận là giá trị thặng dư khi được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, là kết quả hoạt động của toàn bộ tư bản đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Công thức tính lợi nhuận: p = W - k.
Công thức W = k + m chuyển thành W = k + p, có nghĩa là giá trị hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận.
Lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nó phản ánh sai lệch bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Cái khác nhau giữa bỏ m và p ở chỗ, khi nói m là hàm ý so sánh nó với v, còn khi nói p lại hàm ý so sánh với (c + v); p và m thường không bằng nhau, p có thể cao hơn hoặc thấp hơn m, phụ thuộc vào giá cả bán hàng hóa do quan hệ cung - cầu quy định. Nhưng xét trên phạm vi toàn xã hội, tổng số lợi nhuận luôn ngang bằng tổng số giá trị thặng dư.
3. Khi giá trị thặng dư chuyển hóa thành lợi nhuận thì tỷ suất giá trị thặng dư chuyển hóa thành tỷ suất lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước, ký hiệu là p':

p' = m. 100 %
c + v

Trong thực tế, người ta thường tính p’ hàng năm bằng tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận thu được trong năm (P) và tổng tư bản ứng trước (K).

p' hàng năm =p. 100 %
k
- Về lượng, tỷ suất lợi nhuận luôn nhỏ hơn tỷ suất giá trị thặng dư:
p' < p =" k" t =" k" u =" Lợi">các biến động kinh tế, chính trị, XH, quân sự... Do đó, nó là “phong vũ biểu” của nền kinh tế. Giá cả chứng khoán tăng biểu hiện nền kinh tế đang phát triển, ngược lại biểu hiện nền kinh tế đang sa sút, khủng hoảng. Vì vậy, thị trường chứng khoán có vai trò rất quan trọng để đánh giá nền kinh tế.

Câu 24: Cho biết bản chất của lợi nhuận thương nghiệp , lợi tức cho vay và địa tô trong CNTB?
1. Bản chất của lợi nhuận thương nghiệp:
Lợi nhuận thương nghiệp là lợi nhuận của nhà tư bản thương nghiệp chuyên mua bán hàng hoá để có lợi nhuận. Lợi nhuận không phải do hành phi mua bán mà có mà do nhà tư bản công nghiệp “nhường”cho. Để được “nhường” lợi nhuận nhà thương nghiệp phải tham gia mua bán hàng hoá cho nhà tư bản công nghiệp. Quá trình “nhường “ cũng là 1 quá trình cạnh tranh rất gay gắt làm cho tư liệu sản xuất, sức lao động tự do duy chuyển từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao cũng dẫn đến hình thành lợi nhuận bình quân.
Bản chất của lợi nhuận thương nghiệp chính là một phần của giá trị thặng dư do người công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất nó được nhà Tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản công nghiệp,
2. Bản chất của lợi tức cho vay :
Nhà tư bản cho vay nhường quyền sử dụng tư bản của mình cho người khác trong 1 thời gian nhất định, để thu được lợi tức. Về phía nhà tư bản đi vay, họ vay tiền để đưa vào sản xuất- kinh doanh, nên họ thu được lợi nhuận( lợi nhuận bình quân) nhưng vì họ không có tư bản hoạt động nên phải đi vay và phải trích 1 phần lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động thu được nhờ sử dụng tư bản đi vay trả cho nhà tư bản cho vay.
Như vậy, bản chất của lợi tức cho vay là một phần của lợi nhuận bình quân mà tư bản đi vay trả cho tư bản cho vay về quyền sở hữu tư bản để được quyền sử dụng tư bản trong một thời gian nhất định.
3. Bản chất của địa tô :Trong chủ nghĩa tư bản, nông nghiệp cũng trở thành một lĩnh vực đầu tư kinh doanh mang lại lợi nhuận. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành trong nông nghiệp chủ yếu theo hai con đường: một là tiến hành cải cách để chuyển dần từ kinh tế địa chủ phong kiến sang kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa; hai là tiến hành cách mạng tư sản xoá bỏ kinh tế địa chủ phong kiến, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa.Đặc điểm nổi bật của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp là chế độ độc quyền sở hữu và độc quyền kinh doanh ruộng đất. Quan hệ sản xuất đối với ruộng đất gồm ba giai cấp: địa chủ (độc quyền sở hữu ruộng đất), tư bản kinh doanh nông nghiệp (độc quyền kinh doanh ruộng đất) và công nhân nông nghiệp.Sự xuất hiện của tư bản kinh doanh nông nghiệp đã dẫn đến hình thành địa tô tư bản chủ nghĩa. Địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân của tư bản đầu tư trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ với tư cách là kẻ sở hữu ruộng đất. Nói cách khác, địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân nông nghiệp tạo ra mà nhà kinh doanh nông nghiệp phải trả cho địa chủ để được quyền sử dụng ruộng đất.

Câu25: Trong 5 đặc điểm của CNTB(độc quyền) đặc điểm nào là quan trọng nhất? Vì sao?
5 đặc điểm của CNTB độc quyền:
1. Sự tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc quyền
2.Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
3. Xuất khẩu tư bản
4. Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền
5. Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc.
Trong 5 đặc điểm trên , đặc điểm thứ nhất là quan trọng nhất, nó giữ vai trò quyết định đến sự ra đời, phát triển và diệt vong của CNTB, là đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.
Tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn tới sự hình thành các tổ chức độc quyền là đặc trưng kinh tế cơ bản của CNĐQ. Tổ chức độc quyền là tổ chức lien minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ 1 số hàng hoá nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.
Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền, các liên minh hình thành theo liên kết ngang , nghĩa là mới chỉ lien kết các doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây truyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Với những hình thức độc quyền cơ bản: cácten, xanhđica, côngxoocxiom, cônggơlômêrat.

Câu 26: Trình bày hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản của NEP và sự vận dụng NEP ở nước ta?
Điều kiện ra đời của NEP:
Không lâu sau cách mạng Tháng Mười năm 1917, việc thực hiện kế hoạch xây dựng CNXH của V.I.LêNin đã bị gián đoạn bởi cuộc nội chiến 1918 – 1920. Trong thời kỳ này, V.I.Lênin đã áp dụng Chính sách cộng sản thời chiến. Nội dung cơ bản của Chính sách Cộng sản thời chiến là trưng thu lương thực thừa của nông dân sau khi dành lại cho họ mức ăn tối thiểu. ĐỒng thời, xoá bỏ quan hệ hàng hoá - tiền tệ, xoá bỏ việc tự do mua bán lương thực trên thi trường, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy nhà nước.
Chính sách cộng sản thời chiến đã đóng góp quan trọng trong thắng lợi của nhà nước Xô Viết. Nhờ đó mà quân đội đủ sức để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ được nhà nước Xô Viết. Nhờ đó mà quân đội đủ sức để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ được nhà nước Xô viết non trẻ của mình.
Tuy nhiên, khi hoà bình lập lại, chính sách công sản thời chiến không còn thích hợp. Nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Hậu quả chiến tranh đối với nền kinh tế rất nặng nề, thêm vào đó, chính sách trưng thu lương thựcthừa đã làm mất động lực đối với nông dân. Việc xoá bỏ quan hệ hàng hoá - tiền tệ làm mất tính năng động của nền kinh tế vốn dĩ mới bước vào giai đoạn phát triển. VÌ vậy, khủng hoảng kinh tế chính trị diễn ra hết sức sâu sắc. Đòi hỏi phải có 1 chính sách kinh tế mới thích ứng thay thế. Chính sách kinh tế mới được V.I.Lênin đề xướng để đáp ứng yêu cầu này nhằm tiếp tục kế hoạch xây dựng CNXH trong giai đoạn mới.
Nội dung cơ bản của "Chính sách kinh tế mới" bao gồm:
- Dùng chính sách thuế lương thực thay cho chính sách trưng thu lương thực thừa trong Chính sách cộng sản thời chiến.Theo chính sách này, nông dân chỉ nộp thúe lương thực với 1 mức độ cố định trong nhiều năm, căn cứ vào điều kiện tự nhiên của đất canh tác.Số lương thực còn lại sau khi nộp thuế đựơc nông dân tự do trao đổi, mua bán trên thi trường
- Tổ chức thị trường, thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hoá - tiền tệ giữa nhà nước và nông dân, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp.
- Sử dụng nhiều thành phần kinh tế, các hình thức kinh tế quá độ, khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân thay cho sự thủ tiêu kinh doanh tư nhân trong Chính sách cộng sản thời chiến, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, chuyển các xí nghiệp nhà nước sang chế độ hạch toán kinh tế, chủ trương phát triển quan hệ kinh tế với các nước phương Tây để tranh thủ vốn, kỹ thuật...
"Chính sách kinh tế mới" có ý nghĩa to lớn. Về thực tiễn, nhờ có chính sách đó nước Nga Xôviết đã khôi phục nhanh chóng nền kinh tế sau chiến tranh, khắc phục được khủng hoảng kinh tế và chính trị. Về lý luận, nó phát triển nhận thức sâu sắc về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
ở nước ta từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, những quan điểm kinh tế của Đảng ta đã thể hiện sự nhận thức và vận dụng "Chính sách kinh tế mới" của V.I. Lênin phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của thời kỳ quá độ ở nước ta.
Sự vận dụng NEP ở nước ta
ở nước ta từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, những quan điểm kinh tế của Đảng ta đã thể hiện sự nhận thức và vận dụng "Chính sách kinh tế mới" của V.I. Lênin phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của thời kỳ quá độ ở nước ta.
Đổi mới của Việt Nam - sự vận dụng và phát triển sáng tạo NEPTrong cuộc hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đến với tư tưởng của Lê-nin và có dịp nghiên cứu, quan sát trực tiếp sự khởi động của NEP. Nhờ đó, Nguyễn Ái Quốc đã tự mình củng cố nhận thức khoa học và niềm tin mãnh liệt vào Cách mạng Tháng Mười, vào chủ nghĩa xã hội. Cảm nhận trực tiếp giá trị, sức sống và ý nghĩa của NEP, Nguyễn Ái Quốc đã trù tính rằng, sau này đi vào kiến thiết chế độ mới, nhất định chúng ta phải áp dụng “Tân kinh tế chính sách” của Lê-nin. Mấy chục năm sau, khi Việt Nam bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nhận định rằng, chế độ khoán là cần thiết, phải áp dụng, rất thích hợp với chủ nghĩa xã hội. Nhờ vậy, di sản tư tưởng lý luận của Lênin cùng với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và thực tiễn cải cách ở nước Nga theo chính sách kinh tế mới đã có ảnh hưởng to lớn đến cách mạng Việt Nam thông qua Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản.Trong cách mạng giải phóng dân tộc, để giành độc lập tự do, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự cần thiết phải tiến hành cách mạng vô sản theo tấm gương của Cách mạng Tháng Mười Nga. Đó là hình mẫu của cuộc cách mạng đến nơi, tức là triệt để, coi công nông là gốc của cách mạng. Phải có một Đảng chân chính, kiểu mới, thực sự là đội tiên phong lãnh đạo, mang bản chất giai cấp công nhân. Đảng ấy phải có chủ nghĩa làm cốt, giống như con tàu đi biển phải có bàn chỉ nam thì mới không lạc hướng. Trong vô số chủ nghĩa, học thuyết, lý thuyết, chỉ có Chủ nghĩa Lênin (Mác-Lênin) là chân chính nhất, cách mạng nhất, mau mắn thắng lợi nhất, nên phải tin và theo chủ nghĩa ấy. Vào giữa những năm 80 của thế kỷ trước, Việt Nam lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng ở trong nước. Còn ở bên ngoài, chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới cũng đang ở trong tình trạng suy giảm động lực phát triển, rơi vào trì trệ và khủng hoảng có tính phổ biến, các thế lực thù địch tiếp tục phong toả, bao vây và cấm vận đối với nước ta. Trong bối cảnh đó, đổi mới đã trở nên tất yếu cần thiết và bức xúc, chẳng những để tìm lối thoát cho cuộc khủng hoảng, mà còn để xác lập một mô hình phát triển mới cho phù hợp với thực tiễn.Đại hội VI (1986) hơn 20 năm trước đã tạo một bước ngoặt mới cho sự phát triển của Việt Nam, với đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Đảng ta xác định rằng, đổi mới trước hết phải đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế. Tư tưởng cải cách của Lênin và chính sách kinh tế mới đã từng làm hồi sinh nước Nga, giờ đây đã lại một lần nữa thể hiện giá trị, ý nghĩa và sức sống trên mảnh đất thực tiễn của đổi mới ở Việt Nam. Trù tính ứng dụng NEP từ rất sớm của Nguyễn Ái Quốc, giờ đây được vận dụng, thực hành trong đổi mới. Đó là vận dụng tinh thần và phương pháp của NEP, là thực hành sáng tạo, kế thừa để phát triển và phát triển trong những điều kiện mới, hoàn cảnh mới, chứ không phải là sao chép máy móc, giáo điều, vốn rất xa lạ với phép biện chứng, với tư duy biện chứng của Lênin và Hồ Chí Minh.Trên lĩnh vực kinh tế, đổi mới ở Việt Nam đã bắt đầu từ cơ chế khoán trong nông nghiệp, từ khoán sản phẩm trong các gia đình xã viên đến khoán hộ đối với từng hộ nông dân, coi kinh tế hộ là đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn, lấy lợi ích của cá nhân - cá thể người lao động làm cơ sở thực hiện lợi ích xã hội, là động lực để phát triển kinh tế - sản xuất. Đây là khâu đột phá quan trọng, nhanh chóng đem lại hiệu quả.Với đổi mới, kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền, dân chủ, Việt Nam đã chủ động hội nhập, đã mở cửa, hợp tác song phương, đa phương với các nước bạn bè trong khu vực và trên thế giới. Phương thức kết hợp nội lực với ngoại lực đã đem lại cho Việt Nam sự sản sinh và phát triển cả tiềm năng lẫn tiềm lực của chính mình, đã từ khủng hoảng, lạm phát phi mã, kinh tế suy sụp đình đốn, đến tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, phồn vinh, tăng cường được cả thế và lực của mình, có một vị thế và diện mạo mới trong đời sống quốc tế. Với những biến đổi tích cực đó, Việt Nam đang quyết tâm sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, hướng tới phát triển nhanh và bền vững trong tầm nhìn tới năm 2020 để trở thành một nước công nghiệp. Thành tựu ấy của đổi mới là một minh chứng sinh động cho sức sống và ý nghĩa của tư tưởng cải cách của Lênin, của chính sách kinh tế mới.
Câu 27: Thế nào là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua TBCN? Các nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta?
Khi phân tích đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ độc quyền, phát hiện ra quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin rút ra kết luận quan trọng về khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở một số nước hoặc ở một nước riêng lẻ chứ không thể thắng lợi cùng một lúc ở tất cả các nước. Khi chủ nghĩa xã hội thắng lợi ở một nước, thì nhân loại bắt đầu bước vào một thời đại mới - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Trong điều kiện đó, các nước lạc hậu có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo V.I.Lênin, điều kiện để một nước có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là:
Thứ nhất, điều kiện bên trong, có Đảng cộng sản lãnh đạo giành được chính quyền và sử dụng chính quyền nhà nước công, nông, trí thức liên minh làm điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, điều kiện bên ngoài, có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước tiên tiến đã giành thắng lợi trong cách mạng vô sản.
Các nước lạc hậu có khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không phải là quá độ trực tiếp, mà phải qua con đường gián tiếp với một loạt những bước quá độ thích hợp. "Chính sách kinh tế mới" là con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội, được áp dụng ở Liên Xô từ mùa Xuân năm 1921 thay cho "Chính sách cộng sản thời chiến" được áp dụng trong những năm nội chiến và can thiệp vũ trang của chủ nghĩa đế quốc.
2.Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới. Về kinh tế, những nhiệm vụ cơ bản là:
a) Phát triển lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, theo V.I.Lênin, là nền sản xuất đại cơ khí ở trình độ hiện đại được áp dụng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, kể cả trong nông nghiệp.
Ngày nay, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội phải thể hiện được những thành tựu tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Chỉ khi lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ cao mới tạo ra được năng suất lao động cao trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhờ đó những mục tiêu và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mới được thực hiện ngày càng tốt hơn trên thực tế.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, khi đất nước ta chưa có tiền đề về cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra; do đó phát triển lực lượng sản xuất nói chung, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng trở thành nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Nó có tính chất quyết định đối với thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác của phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là phát triển nguồn lực con người - lực lượng sản xuất cơ bản của đất nước, yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế, tạo đội ngũ lao động có khả năng sáng tạo, tiếp thu, sử dụng, quản lý có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại. Vì vậy, phải phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là "quốc sách hàng đầu" trong chiến lược phát triển đất nước.
b) Xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng một chế độ xã hội mới có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu. Chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu là đặc trưng của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; nó là sản phẩm của nền kinh tế phát triển với trình độ xã hội hóa cao, các lực lượng sản xuất hiện đại, nó sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Vì vậy, không thể nôn nóng, vội vàng, duy ý chí trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Nó chỉ được hình thành trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao.
Như vậy, xây dựng quan hệ sản xuất mới định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
Một là, quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, "bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới".
Hai là, quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, do đó, quan hệ sản xuất mới phải được xây dựng một cách đồng bộ cả ba mặt đó.
Ba là, tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là ở hiệu quả của nó: thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Do đó, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời phải tôn trọng và sử dụng lâu dài và hợp lý cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
c) Mở rộng và nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế
Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu đối với các quốc gia. Nền kinh tế nước ta không thể khép kín mà phải tích cực mở rộng và ngày càng nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hoá kinh tế và cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tạo ra những thách thức và nguy cơ cần phải đề phòng, khắc phục; mặt khác, tạo ra cho nuớc ta những cơ hội, thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo con đường "rút ngắn". Đó là thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài, nhập được các loại công nghệ hiện đại và những kinh nghiệm quản lý tiên tiến... nhờ đó, khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách lạc hậu so với các nước khác. Đó là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế quốc tế, phải nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, khai thác thị trường thế giới, tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế với các tổ chức và các quốc gia trong khu vực và quốc tế. Tuy nhiên phải xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa mở rộng kinh tế quốc tế với độc lập tự chủ, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc với kế thừa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, v.v..

Câu 28: Thành phần kinh tế là gì? Tại sao trong thời kỳ quá độ ở nước ta tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần? Kinh tế nhà nước giữ vai trò gì trong cơ câú kinh tế nhiều thành phần?
1. Thành phần kinh tế:
— Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế được đặt trưng bởi hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất.
— Cơ cấu thành phần kinh tế là tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trường hợp tác cạnh tranh.
— Ở nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế như thành phần kinh tế tư bản nhà nước, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế tư bản nhà nước, thành phần kinh tế vốn đầu tư nước ngoài ( theo quan niệm đảng cộng sản VN lần 10).

2.Tính tất yếu khách quan và tác dụng tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH:
Tính tất yếu khách qua tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH:
— Do yêu cầu của quy luật chung. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất.
— Do yêu cầu LLSX nước ta trong thực tiễn, LLSX nước ta đa dạng nhiều trình độ khác nhau, phổ biến là thấp kém, tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
— Do quan hệ sở hữu ở nước ta đa dạng nhiều hình thức sở hữu. VD: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Những hình thức sỡ hữu ấy sẽ sinh ra nhiều thành phần kinh tế mới khai thác được nhiều tiềm năng kinh tế.
sở hữu tòan dânà thành phần kinh tế nhà nước.
sở hữu tập thểàthành phần kinh tế tập thể
sở hữu tư nhân àthành phần kinh tế TBTư nhân, tiểu chủ.
sở hữu hỗn hợpàthành phần kinh tế tư bản nhà nước
— Do yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền kinh tế theo hướng XHCN. Tất yếu của thành phần kinh tế sẽ tồn tại trong 1 thời gian nhất định chưa tiêu vong ngay như thành phần kinh tế tư nhân, có những thành phần kinh tế mới TB sẽ ra đời. Đồng thời có những thành phần kinh tế trung gian giữa cũ và mới tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
— Do yêu cầu của tính dân chủ trong hoạt động kinh tế tạo điều kiện cho các chủ thể được tự do lựa chọn những hình thức kinh tế phù hợp. Do đó khai thác tiềm năng một cách tốt nhất. Đồng thời tạo môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế khác nhau.
Tác dụng của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở nước ta:
Chủ động làm cho quan hệ sở hữu, quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho LLSX phát triển ở nước ta.
Tạo ra sự biệt lập tương đối về kinh tế giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh và vì vậy nó thúc đẩy kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường phát triển ở nước ta đồng thời nó tạo ra môi trường cạnh tranh tích cực, nó là động lực thúc đẩy KTTT phát triển.
Huy động được các nguồn lực để nâng cao năng lực khoa học công nghệ VN, thúc đẩy CN hóa, hiện đại hóa ở nước ta, góp phần xây dựng cơ sở vật chất, kinh tế phát triển tiên tiến góp phần nâng cao năng suất chất lượng.
Thúc đẩy VN hội nhập với nển kinh tế khu vực và thế giới.
Thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước.
Đóng góp vào thành phần xây dựng CNXH ở nước ta.
KL : Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở nước ta là tất yếu khách quan từ thời kỳ quá độ lên CNXH.
Vai trò : Kinh tế nhà nước:
Kinh tế nhà nước dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò đó được thể hiện:
Các doanh nghiệp nhà nước đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ.
Kinh tế nhà nước là chổ dựa để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
— Hình thức: tổng công ty,công ty, công ty liên doanh, liên kết, công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên.
- Xu hướng vận động: đây là thành phần kinh tế kinh tế chủ nghĩa tồn tại trong suốt thời kỳ kinh tế chủ nghĩa nhà nước cần phải đầu tư thích đáng để cho nó phát triển thêm.

Câu 29: Phân tích mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế? Định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế nhiều thành phần giải quyết vấn đề gì ?
Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế không tồn tại độc lập mà đan xen vào nhau, tác động qua lại với nhau, mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất và biểu hiện lợi ích của một giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định. Các thành phần kinh tế vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.
Tính thống nhất biểu hiện ở chỗ các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nằm trong hệ thống phân công xã hội có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau cả "đầu vào" và "đầu ra". Các thành phần kinh tế đều hoạt động trong một môi trường thống nhất, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế biểu hiện ở xu hướng vận động khác nhau, mang bản chất kinh tế khác nhau, biểu hiện lợi ích kinh tế khác nhau. Ngoài ra, ngay trong nội bộ mỗi thành phần kinh tế cũng có mâu thuẫn do sự vi phạm hợp đồng, vì lợi ích cục bộ, chiếm dụng vốn của nhau, vi phạm bản quyền sở hữu phát minh, nhãn mác, giành thị trường, v.v.. Những mâu thuẫn của nền kinh tế nhiều thành phần chỉ được giải quyết dần dần trong quá trình xã hội hóa sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xã hội hóa sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính là làm cho nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta cần phải: ( giải quyết vấn đề)
- Làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và nó cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khai thác tối đa các nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; thừa nhận thuê mướn lao động nhưng không để nó trở thành quan hệ thống trị;
- Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước; phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo, tránh sự phân hóa xã hội thành hai cực đối lập, không để chênh lệch quá lớn về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư; kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.

Câu 30: Công nghiệp hoá có phải là tất yếu khách quan đối với mọi nước? Trong thời đại ngày nay , công nghiệp hoá ở Việt Nam có đặc điểm gì?
1. Công nghiệp hoá là tất yếu khách quan đối với mọi nước
— CNH-HĐH trở thành quy luật chung trong phát triển kinh tế trên thế giới. Tức là không phân biệt quốc gia ,chế độ kinh tế chính trị xã hội, tôn giáo dân tộc… bất kỳ nước nào muốn nào muốn chuyển từ nghèo thành giàu, từ kém phát triển thành phát triển phải thực hiện CNH-HĐH.
— Bất kỳ nước nào muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến tự trang bị cho tất cả các ngành của nền kinh tế quốc doanh đều phải tiến hành CNH-HĐH.
— Bất kỳ nước nào muốn đi lên CNXH-CNCS đều phải xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến. Việc xây dựng ấy hiện nay đối với các nước có khác nhau. Đối với nước có nền kinh tế phát triển họ không phải xây dựng từ đầu mà chỉ cần điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Đối với nước có nền kinh tế kém phát triển. Ví dụ như VN thì chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến phải xây dựng mới từ đầu phải coi CNH-HĐH là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH.
· Tác dụng của CNH-HĐH
— Tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến, nâng cao năng suất lao động xã hội, phát triển LLSX ổn định cải tiến nâng cao đời sống nhân dân làm cho dân giàu nước mạnh.
— CNH-HĐH tạo ra tiềm lực kinh tế mạnh để phát triển toàn diện con người VN. Xây dựng cơ cấu kinh tế tiên tiến hiện đại.
— Tạo ra tiềm lực kinh tế phát triển mạnh mẽ để cũng cố hoàn thiện quan hệ XHCN làm cho quan hệ sản xuất nâng cao trở thành hiện thực ở nước ta.
— Rút ngắn khoảng cách giữa các vùng các dân tộc thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết của đảng dân tộc đã đề ra.
— Tóm lại: CNH-HĐH có tác dụng về mọi mặt kinh tế ,chính trị, y tế bảo hiểm… Trước tiên là kinh tế, kinh tế sẽ ảnh hưởng các ngành khác trở thành quy luật tất yếu ở các nước có nền kinh tế kém phát triển.
2. Công nghiệp hoá ở Việt Nam có đặc điểm:
Do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Câu 31: Phân tích nội dung cơ bản của công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở nước ta?
a. Nội dung của CNH-HĐH ở nước ta:
· Thực hiện CMKH- công nghệ tiên tiến.
— Hiện nay cách mạng khoa học công nghệ đã bùng nổ trên phạm vi toàn cầu những ngành lĩnh vực sau đây phát triển mạnh và trở thành lĩnh vực thời đại: kỹ thuật điện tử, CNTT, sản xuất VLXD mới, CNSHọc, năng lượng mới. Tự động hóa toàn bộ CN hải dương, CN vũ trụ. Loài người đang chuyển từ kinh tế công nghiệp à kinh tế tri thức. Vì vậy nước ta cần phải tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực để kế thừa thành tựu tinh hoa thành tựu khoa học công nghệ của loài người thúc đẩy CNH-HĐH ở nước ta.
— Sự nghiệp CNH-HĐH nước ta phải kết hợp chặt chẽ 2 nội dung vừa CNH tức là vừa chuyển nền kinh tế từ thủ công nghiệp sang cơ khí hóa, phát triển các ngành công nghiệp then chốt để tạo nền tảng cho nền kinh tế nước ta. Đồng thời vừa phải HĐH tích cực thu nhập phổ biến ứng dụng thông tin những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến vào các lĩnh vực kinh tế đời sống với những bước đi trình độ thích hợp.
— Trong quá trình CNH-HĐH thực hiện cách mạng khoa học công nghệ cần kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp tính tuần tự với tính nhảy vọt. Đi tắc đón đầu để bất kịp xu thế phát triển thời đại.
— Thực hiện CM khoa học tiên tiến nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến phát triển mạnh mẽ LLSX ở nước ta.
· Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý:
— Cơ cấu kinh tế là tổng hợp các bộ phận hợp thành, cùng với vị trí, tỷ trọng và quan hệ hợp tác phù hợp giữa các bộ phận trong quan hệ kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế được xem xét ở nghĩa rộng dưới góc độ: cơ cấu ngành ( như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…) quan trọng nhất; cơ cấu vùng (các vùng kinh tế theo lãnh thổ) và thành phần kinh tế.
— Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý ở nước ta cần phải tuân theo 1 số vấn đề có tính quy luật sau:
— Việc xây dựng cơ cấu kinh tế ở nước ta cần phải là quá trình chuyển dịch dần từ thấp đến cao, chuyển dần từ kinh tế nông nghiệp phổ biến à NN-CN-DVà CN-NN-DV hiện đạiàDV-CN-NN hiện đại.
— Trong điều kiện hiện nay cơ cấu kinh tế nước ta luôn ưu tiên vào nông nghiệp trước.
— Tạo thị trường cung cấp sức lao động cho CNH-HĐH.
— Trong điều kiện nước ta có thể phát triển sản xuất nhiều loại hàng hóa khác nhau thì cơ cấu kinh tế nên hướng ưu tiên vào ngành có năng suất lao động chiếm ưu thế.
— Trong kinh tế đất nước phải tạo ngành chủ lực để dễ dàng xuất nhập khẩu theo ý muốn của mình. Tỷ trọng các ngành dịch vụ ngày càng phải tăng trong nền kinh tế quốc dân.
· Thực hiện phân công lao động xã hội:
— Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa lao động tức là chuyên môn hóa sản xuất giữa các ngành, trong nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công lao động xã hội có tác dụng rất to lớn. Nó là đòn bẩy của sự phát triển của công nghệ và năng suất lao động, cùng với cách mạng khoa học-công nghệ, nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý.
— Việc phân công lao động xã hội ở nước ta cần phải tuân theo các quy luật sau:
Tỷ trọng của lao động công nghiệp phải tăng nhanh phải chiếm ưu thế hơn so với lao động nông nghiệp.
Tỷ trọng của lao động trong khu vực 1 phải tăng nhanh hơn chiếm ưu thế hơn so với lao động trong KV2.
Tỷ trọng lao động trong KV3 khu vực dịch vụ phải tăng nhanh hơn chiếm ưu thế hơn so với lao động trong khu vực sản xuất vật chất.
Tỷ trọng của lao động phức tạp lao động trí tuệ phải tăng nhanh hơn chiếm ưu thế hơn so với lao động xã hội.
Làm cho nền kinh tế nước ta trở thành 1 bộ phận trong nền kinh tế toàn cầu
· Những nội dung cụ thể của CNH-HĐH trong giai đoạn 2001-2010:
— Đặc biệt coi trọng CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn.
— Phát triển công nghiệp, ưu tiên CN chế biến lương thực thực phẩm, tiêu dùng, công nghệ điện tử, CNTT.
— Cải tạo mở rộng nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng vật chất của cải của nền kinh tế.
— Phát triển nhanh du lịch dịch vụ.
— Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ, ưu tiên cho vùng biên giới hải đảo, thiểu số.
— Mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.

Câu 32: Nội dung cụ thể của CNH, HĐH ở nước ta hiện nay?
a) Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất; nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh phù hợp với từng vùng, từng địa phương; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.
b) Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp hỗ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế. Phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại.
Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP.
c) Phát triển kinh tế vùng
Phát triển các vùng trong cả nước và tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng; thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực, tác động lan toả đến các vùng khác; đồng thời tạo điều kiện phát triển nhanh hơn cho các vùng kinh tế đang còn nhiều khó khăn.
d) Phát triển kinh tế biển
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.

Câu 33: Những điều kiện, tiền đề để thực hiện công nghiệp hoá, HĐH ?
Những điều kiện tiền đề đẩy mạnh CNH-HĐH ở nước ta:
— Tạo vốn cho công nghiệp hóa hiện đại hóa: vốn trong nước và vốn ngoài nước( quan trọng đầu tư trực tiếp).
— Đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa.
— Đào tạo nguồn nhân lực có đạo đức phẩm chất tốt yêu nước, yêu CNXH.
— Có năng lực chuyên ngành giỏi, tích cực tham gia sản xuất, bất kịp xu thế thời đại.
— Xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ theo yêu cầu của CNH-HĐH.
— Phải kết hợp công nghiệp truyền thống với công nghiệp truyền thống hiện đại, trong đó công nghiệp truyền thống hiện đại giữ vai trò quyết định.
— Mở rộng quan hệ sản xuất kinh tế đối ngoại để mở rộng thị trường phát triển thị phần, bạn hàng để nâng cao lợi ích kinh tế, lợi nhuận tạo vốn, kế thừa công nghệ tiên tiến để thúc đẩy CNH-HĐH.
Tăng cường sự lãnh đạo của đảng và sự quản lýcủa nhà nước. Đảng đề ra chủ trương lâu dài đúng đắn và trong lãnh đạo nâng cao phẩm chất đạo đức của đảng viên, tăng cường sự quản lý nhà nước kinh tế vĩ mô xây dựng hoạch định ra chiến lược chính sách.

Câu 34: Thế nào là kinh tế nông thôn? Phân tích ý nghĩa của phát triển kinh tế nông thôn đối với CNH, HĐH?
b. Kinh tế nông thôn:
**Khái niệm: kinh tế nông thôn là một phức hợp những nhân tố cấu thành của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nông – lâm – ngư nghiệp, cùng với ngành thủ công nghiệp truyền thống, các ngành tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và phục vụ nông nghiệp, các ngành thương nghiệp và dịch vụ… tất cả các quan hệ hữu cơ với nhau trong kinh tế vùng và lãnh thổ và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nông thôn có nội dung rất rộng, bao gồm các ngành, lĩnh vực và các thành phần kinh tế có quan hệ và tác động lẫn nhau.
**Vai trò:
a) Sự phát triển của kinh tế nông thôn sẽ góp phần tạo ra những tiền đề quan trọng không thể thiếu bảo đảm thắng lợi cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Phát triển kinh tế nông thôn trước hết là phát triển kinh tế nông nghiệp một cách mạnh mẽ và ổn định, tạo cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là cho công nghiệp một cơ sở vững chắc về nhiều phương diện, trước hết là lương thực, thực phẩm, nguyên liệu, vốn và thị trường. Dù cho nền kinh tế nước ta sau này phát triển đến đâu và tỷ lệ lao động làm nông nghiệp giảm xuống do năng suất lao động trong nông nghiệp tăng lên thế nào thì nông nghiệp bao giờ cũng vẫn đóng một vai trò quan trọng vì nó tạo ra lương thực, thực phẩm thoả mãn nhu cầu hàng đầu của con người là nhu cầu ăn. Các ngành công nghiệp nhẹ như chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp dệt, giấy, đường... phải dựa vào nguồn nguyên liệu chủ yếu từ nông nghiệp. Với việc phát triển đồng bộ các ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn, kinh tế nông thôn sẽ tạo ra một khối lượng sản phẩm với giá trị ngày càng tăng và điều đó góp phần giải quyết vấn đề vốn để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời nông nghiệp, nông thôn là thị trường quan trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ.
b) Sự phát triển của kinh tế nông thôn sẽ góp phần thực hiện có hiệu quả quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại chỗ
Phát triển kinh tế nông thôn sẽ làm cho các hoạt động ở nông thôn trở nên sôi động hơn. Cơ cấu kinh tế, phân công lao động chuyển dịch đúng hướng có hiệu quả. Công nghiệp gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp tại chỗ. Vấn đề đô thịhoá sẽ được giải quyết theo phương thức đô thị hoá tại chỗ. Vấn đề việc làm cho người lao động sẽ được gia tăng ngày càng nhiều trên địa bàn tại chỗ. Trên cơ sở đó, tăng thu nhập, cải thiện từng bước đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; giảm sức ép của sự chênh lệch kinh tế và đời sống giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng phát triển và vùng kém phát triển.
c) Sự phát triển của kinh tế nông thôn sẽ góp phần to lớn trong việc bảo vệ và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái
Nông thôn nước ta bao gồm những khu vực rộng lớn. ở đây, các tài nguyên của đất nước chiếm tuyệt đại bộ phận như: đất đai, khoáng sản, động thực vật, rừng biển, nguồn nước... Phát triển kinh tế nông thôn cho phép khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng thời bảo vệ chúng trong quá trình sử dụng.
d) Sự phát triển của kinh tế nông thôn sẽ tạo cơ sở vật chất cho sự phát triển văn hóa ở nông thôn
Nông thôn nước ta vốn là vùng kinh tế, văn hóa lạc hậu, sản xuất và sinh hoạt phân tán, nhiều hủ tục. Mặt khác, nông thôn là nơi có truyền thống văn hóa cộng đồng còn sâu đậm... Phát triển kinh tế nông thôn sẽ tạo điều kiện để vừa giữ gìn, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa xã hội tốt đẹp, bài trừ văn hóa lạc hậu cũ, vừa tổ chức tốt đời sống văn hóa và tinh thần ở nông thôn.
khu vực rộng lớn. ở đây, các tài nguyên của đất nước chiếm tuyệt đại bộ phận như: đất đai, khoáng sản, động thực vật, rừng biển, nguồn nước... Phát triển kinh tế nông thôn cho phép khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng thời bảo vệ chúng trong quá trình sử dụng.
d) Sự phát triển của kinh tế nông thôn sẽ tạo cơ sở vật chất cho sự phát triển văn hóa ở nông thôn
Nông thôn nước ta vốn là vùng kinh tế, văn hóa lạc hậu, sản xuất và sinh hoạt phân tán, nhiều hủ tục. Mặt khác, nông thôn là nơi có truyền thống văn hóa cộng đồng còn sâu đậm... Phát triển kinh tế nông thôn sẽ tạo điều kiện để vừa giữ gìn, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa xã hội tốt đẹp, bài trừ văn hóa lạc hậu cũ, vừa tổ chức tốt đời sống văn hóa và tinh thần ở nông thôn.

Câu 35: Trình bày khái niệm, nội dung CNH, HĐH nông nghiệp , nông thôn?
— Khái niệm: CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo định hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại: gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ, cho phép phát huy có hiệu quả cao mọi nguồn lực và lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, mở rộng giao lưu trong nước và quốc tế, nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội trong nông nghiệp, nông thôn: xây dựng nông thôn giàu có, công bằng dân chủ văn minh xã hội chủ nghĩa.
— Nội dung cơ bản của CNH-HĐH ở nông thôn:
— Phát triển hàng hóa đa dạng.
— Thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn bao gồm: thủy lợi hóa cơ giới hóa, điện khí hóa, phát triển giao thông nông thôn, phát triển thông tin liên lạc.
— Phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn như: công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản: công nghiệp may, giày dép, thủy tinh sành sứ.
— Phát triển các loại hình dịch vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn như: dịch vụ thủy nông, dịch vụ thú y, dịch vụ bảo vệ thực vật, dịch vụ cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm…
Xây dựng nông thôn mới sạch về môi trường giàu có công bằng, dân chủ, văn minh…

Câu 36: Trình bày nội dung phát triển kinh tế hang hoá nhiều thành phần ở nông thôn?
Trong kinh tế nông thôn có sự hiện diện của nhiều thành phần kinh tế. Để có nền kinh tế thị trường, với tính cách là công cụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nông thôn, các thành phần kinh tế phải vận động theo hướng chung: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng trong kinh tế nông thôn; kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước v.v. cùng phát triển trở thành nội lực xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về kinh tế nhà nước trong kinh tế nông thôn:
Trong cơ chế cũ, bộ phận kinh tế này hoạt động mang nặng tính bao cấp, kém hiệu quả, không tương xứng với đầu tư của Nhà nước. Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, một số doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước đã phát triển khá, dần dần chuyển sang sản xuất và kinh doanh tổng hợp, mở rộng phạm vi hoạt động ra toàn địa bàn và mọi ngành nghề. Tuy nhiên, nhìn toàn cục vai trò của kinh tế nhà nước ở nông thôn vẫn còn mờ nhạt, tác động chưa mạnh đối với nền kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
Trong những năm trước mắt, để kinh tế nhà nước ở nông thôn phát triển có hiệu quả hơn, đảm bảo đủ mạnh để giữ được vai trò chủ đạo cần thực hiện tốt những giải pháp chủ yếu sau:
+ Đẩy nhanh việc sắp xếp và đổi mới quản lý, tăng cường tính độc lập tự chủ của các đơn vị kinh tế nhà nước trong nông nghiệp, nông thôn, giảm dần và đi đến xoá bỏ bao cấp từ ngân sách đầu tư. Mọi hoạt động kinh tế của các đơn vị phải theo đúng pháp luật hiện hành.
+ Quan tâm thích đáng lợi ích kinh tế của người lao động trên cơ sở họ được làm chủ thực sự quyền sở hữu, quyền sử dụng tư liệu sản xuất trong phạm vi hợp pháp của mình. Giải quyết tốt quan hệ ruộng đất theo luật định, giao quyền sử dụng ruộng đất cho người lao động và thừa nhận quyền sở hữu các tư liệu sản xuất khác.
+ Xác định quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của người lao động và các doanh nghiệp chủ yếu làm dịch vụ đầu vào, đầu ra giúp cho các hộ gia đình tự chủ sản xuất kinh doanh. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa doanh nghiệp và hộ gia đình trên cơ sở đảm bảo thoả đáng lợi ích kinh tế của mỗi bên, tạo điều kiện cho nhau tồn tại và phát triển.
- Về kinh tế tập thể trong kinh tế nông thôn:
Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã là những tổ chức kinh tế hợp tác của những người lao động liên kết tự nguyện góp vốn, góp sức để sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp và các ngành nghề dịch vụ khác được sự hướng dẫn, hỗ trợ của Nhà nước.
Kinh tế tập thể và phong trào hợp tác hoá ở nước ta phát triển từ những năm 1960 và đã đạt được những thành tựu nhất định; góp phần đáng kể trong sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tuy nhiên, các hợp tác xã theo kiểu cũ đã bộc lộ một số yếu kém: chưa khuyến khích phát triển sản xuất và khai thác các tiềm năng sẵn có trong nông nghiệp, nông thôn; chưa chuyển mạnh nông nghiệp tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa; chưa đổi mới kịp thời việc tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm... nên nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển còn chậm, không ổn định, hiệu quả thấp.
Hợp tác xã nông nghiệp theo mô hình cũ không còn thích hợp nữa do đó cần thúc đẩy sự ra đời hợp tác xã kiểu mới, tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ, phát triển từ thấp đến cao với những hình thức tổ chức và phân phối phong phú và đa dạng.
Chuyển sang cơ chế và phương thức hoạt động mới, nhìn chung các hợp tác xã đều đã chuyển thành tổ chức dịch vụ cho kinh tế hộ gia đình nông dân hoặc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Về kinh tế cá thể, tiểu chủ trong kinh tế nông thôn:
Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nông thôn là kinh tế hộ gia đình không tham gia hợp tác xã mà hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào hoặc chủ yếu dựa vào vốn và sức lao động của bản thân. Thành phần kinh tế này đang đáp ứng những yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả các tiềm năng đất đai, vốn và sức lao động cũng như tay nghề trong kinh tế nông thôn. Xu hướng phát triển chung của kinh tế cá thể, tiểu chủ trong nông nghiệp, nông thôn định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu chuyển lên hợp tác xã kiểu mới với nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích phát triển hình thức trang trại gia đình cũng như các loại hình sản xuất khác của kinh tế hộ gia đình. Đặc biệt khuyến khích các hộ nông dân, các trang trại gia đình và các thành phần kinh tế khác liên kết với nhau, hình thành các tổ chức, các hình thức kinh tế hợp tác để mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, thu hút và hỗ trợ các hộ gia đình còn khó khăn.
- Về kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước trong kinh tế nông thôn:
Cho đến nay, những hình thức kinh tế này mới chỉ bắt đầu phát triển ở nông thôn. Tuy nhiên, đi đôi với quá trình phát triển kinh tế nông thôn, các hình thức kinh tế này sẽ có khả năng phát triển mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian tới cần khuyến khích và định hướng phát triển các loại hình kinh tế này; tạo điều kiện cho tư nhân trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh trong nông nghiệp, nhất là đầu tư vào công nghiệp phục vụ nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng; đồng thời khuyến khích tư bản tư nhân, các chủ trang trại, hộ gia đình liên kết với doanh nghiệp nhà nước xây dựng các cơ sở chế biến, tìm thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa... vì đó là nấc thang tiến bộ trên con đường phát triển kinh tế hàng hóa ở nông thôn và xã hội hóa kinh tế nông thôn.

Câu 37: Sự giống và khác nhau cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN và kinh tế thị trường TBCN?
Kinh tế thị trường là thành tựu chưng của văn minh nhân loại, nó không phải là sản phẩm riêng có của CNTB ; giữa CNXH và kinh tế thị trường không có mâu thuẫn cơ bản. Kinh tế thị trường không phải là chế độ kinh tế xã hội mà chỉ là một biện pháp phát triển lực lượng sản xuất ; kinh tế kế hoạch không có nghĩa là CNXH, CNTB cũng có kế hoạch , kinh tế thị trường ; sự khác nhau giữa CNXH và CNTB không phải ở chỗ kế hoạch hay thị trường ; kế hoạch và thị trường đều là phương pháp kinh tế.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nền kinh tế TBCN đều xuất phát từ nền kinh tế thị trường, và mang những đặc điểm chung nhất của nền kinh tế thị trường:
- Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
- Giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường đựơc phát triểm đầy đủ và nó có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
- Nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…
- Có sự điều tiết của nhà nước
Tuy có những điểm giống nhau, kinh tế thị trường định hướng CNXH và KTTT CNTB có những nét khác nhau.:
Một là, nếu kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa lấy chế độ tư hữu làm nền tảng thì kinh tế thị trường định hướng XHCN dựa trên chế độ công hữu. Chính quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng là yếu tố đầu tiên quy định sự khác nhau về bản chất của hai loại thị trường.
Hai là, nếu trong mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa các thành phần các chủ thể kinh tế tồn tại biệt lập cạnh tranh, liên kết và loại trừ nhau thì ngượclại trong KTTTĐHXHCN, chúng không tồn tại đối lập, không ngoại trừ mà hợp tác liên kết đi lên CNXH thông qua kinh tế hợp tác, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Ba là, trong khi mục tiêu của kinh tế thị trường TBCN là vì quyền lợi của từng nhà tư bản và của giai cấp tư sản thì mục tiêu của KTTTĐHXHCN là vì nhân dân lao động, do dân, vì dân và thực hiện xã hội mọi người đều giàu có.
Bốn là, trong KTTTTBCN chính quyền là của giai cấp tư sản còn trong KTTTĐHXHCN, chính quyền của nhân dân lao động.
Năm là, nhờ thực hiện chính sách phân phối theo lao động với các chính sách phân phối khác kết hợp với việc thực hiện các chính sách xã hội nên kinh tế thị trường định hướng XHCN tránh được sự phân cực giàu nghèo như trong CNTB.
Sáu là, cơ chế thị trường của CNTB là cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước nhằm phục vụ chủ nghĩa tư bản độc quyền. Trong khi cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Câu 38: Các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta?
a) Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
Thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là một trong những điều kiện cơ bản để thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển, nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế.
Cùng với việc đổi mới, củng cố kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, việc thừa nhận và khuyến khích các thành phần kinh tế cá thể, tư nhân phát triển là nhận thức quan trọng về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, tuy vị trí, quy mô, tỷ trọng, trình độ có khác nhau nhưng tất cả đều là nội lực của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
b) Mở rộng phân công lao động xã hội, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường
Phân công lao động xã hội là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, cần phải mở rộng phân công lao động xã hội, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng chuyên môn hóa, hợp tác hoá nhằm khai thác mọi nguồn lực, phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao động. Cùng với mở rộng phân công lao động xã hội trong nước, phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài nhằm gắn phân công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới. Nhờ đó mà thị trường trong nước từng bước được mở rộng, tiềm năng về lao động, tài nguyên, cơ sở vật chất hiện có được khai thác có hiệu quả.
Cần phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh: Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ; phát triển vững chắc thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh; phát triển thị trường bất động sản bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất; phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế; phát triển thị trường khoa học và công nghệ... Điều này sẽ bảo đảm cho việc phân bố và sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất phù hợp với nhu cầu của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
c) Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh nếu thường xuyên đổi mới công nghệ để hạ chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy, phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. So với thế giới, trình độ công nghệ sản xuất của Việt Nam còn thấp kém, không đồng bộ, do đó, khả năng cạnh tranh của hàng hóa nước ta so với hàng hóa nước ngoài trên cả thị trường nội địa và thế giới còn kém. Bởi vậy, để phát triển kinh tế hàng hóa, chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện đại, đồng bộ cũng đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống đó ở nước ta đã quá lạc hậu, không đồng bộ, mất cân đối nghiêm trọng nên đã cản trở nhiều đến quyết tâm của các nhà đầu tư cả ở trong nước lẫn nước ngoài, cản trở phát triển kinh tế hàng hóa ở mọi miền đất nước. Vì thế, cần gấp rút xây dựng và củng cố các yếu tố của hệ thống kết cấu đó. Trước mắt, Nhà nước cần tập trung ưu tiên xây dựng, nâng cấp một số yếu tố thiết yếu nhất như đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, điện, nước, hệ thống thông tin liên lạc, ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm...
d) Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để phát triển. Nó là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư. Giữ vững ổn định chính trị ở nước ta hiện nay là giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao vai trò hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân.
Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan trọng để quản lý nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nó tạo nên hành lang pháp lý cho tất cả mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Với hệ thống pháp luật đồng bộ và pháp chế nghiêm ngặt, các doanh nghiệp chỉ có thể làm giàu trên cơ sở tuân thủ luật pháp.
Đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng.
e) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi
Hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô phải được kiện toàn phù hợp với nhu cầu kinh tế thị trường, bao gồm: điều tiết bằng chiến lược và kế hoạch kinh tế, pháp luật, chính sách và các đòn bẩy kinh tế, hành chính, giáo dục, khuyến khích, hỗ trợ và cả bằng răn đe, trừng phạt, ngăn ngừa, điều tiết thông qua bộ máy nhà nước...
Mỗi cơ chế quản lý kinh tế có đội ngũ cán bộ quản lý, kinh tế (ở tầm vĩ mô và vi mô) tương ứng. Chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kinh doanh cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Đội ngũ đó phải có năng lực chuyên môn giỏi, thích ứng mau lẹ với cơ chế thị trường, dám chịu trách nhiệm, chấp nhận rủi ro và trung thành với con đường xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã chọn. Song song với đào tạo và đào tạo lại, cần phải có phương hướng sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn với đội ngũ đó, nhằm kích thích hơn nữa việc không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh quản lý, tài năng kinh doanh của họ. Cơ cấu của đội ngũ cán bộ cần phải được chú ý bảo đảm cả ở phạm vi vĩ mô lẫn vi mô, cả cán bộ quản lý lẫn cán bộ kinh doanh.
h) Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại, chúng ta phải đa dạng hoá hình thức, đa phương hoá đối tác; phải quán triệt nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau và không phân biệt chế độ chính trị - xã hội; cải cách cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, thu hút mạnh vốn và đầu tư nước ngoài, thu hút kỹ thuật, nhân tài và kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển.
Những giải pháp nói trên tác động qua lại với nhau, sẽ tạo nên sức mạnh thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Câu 39 : Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhà nước có vai trò và chức năng gì?
a) Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò kinh tế đặc biệt
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó quản lý. Tuỳ thuộc vào bản chất của nhà nước và trình độ phát triển kinh tế của từng chế độ xã hội mà vai trò kinh tế của nhà nước có những biểu hiện thích hợp.
Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, vai trò kinh tế chủ yếu thể hiện ở việc điều tiết bằng thuế và luật pháp. ở đây, theo cách nói của Ph.Ăngghen, nhà nước ở bên trên, bên ngoài quá trình sản xuất xã hội.
Đến chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, với sự xuất hiện khu vực sở hữu nhà nước, làm cho nhà nước tư sản bắt đầu có vai trò kinh tế mới. Ngoài việc điều tiết nền sản xuất xã hội thông qua thuế và luật pháp, nhà nước tư sản còn có vai trò tổ chức quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế của nhà nước.
Chỉ đến nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mới có vai trò kinh tế đặc biệt. Vai trò kinh tế đó là tổ chức, quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở cả tầm kinh tế vĩ mô và vi mô, trong đó quản lý kinh tế vĩ mô là chủ yếu.
Sở dĩ nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò kinh tế đặc biệt, mới mẻ so với các nhà nước trong lịch sử là bởi vì:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là người đại diện cho nhân dân và toàn xã hội, có nhiệm vụ tổ chức, quản lý đất nước về mọi mặt hành chính, kinh tế, xã hội.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là người đại diện cho sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, có nhiệm vụ quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước.
- Nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực là chủ yếu, còn có những hạn chế, khuyết tật như: khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát, cạnh tranh không lành mạnh, phân hoá giàu nghèo... cần có sự quản lý của nhà nước nhằm góp phần khắc phục những khuyết tật, phát huy mặt tích cực của kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.
- b) Chức năng quản lý kinh tế của nhà nước
Một là, nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi và đảm bảo ổn định chính trị, xã hội cho sự phát triển kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường các chủ thể kinh tế của thị trường được tự chủ, nhưng quyền tự chủ được thể chế hoá thành pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân theo pháp luật. Với hệ thống pháp luật đồng bộ, có hiệu lực cao và sự ổn định chính trị, xã hội là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
Hai là, nhà nước tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định cho phát triển kinh tế.
Nhà nước xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển; ban hành các chính sách; trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế - xã hội phát triển theo mục tiêu xác định. Nhà nước thông qua những chính sách ưu đãi, những hình thức hỗ trợ, những đòn bẩy kinh tế để hướng các doanh nghiệp vào các ngành, các lĩnh vực mà nhà nước muốn ưu tiên phát triển. Nhà nước trực tiếp đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất, kết cấu hạ tầng xã hội, tham gia phát triển và kinh doanh những dịch vụ công cộng quan trọng như bảo đảm an ninh, quốc phòng, tài chính, tín dụng... Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi những chấn động, khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp, do đó nhà nước phải sử dụng các chính sách tài chính, tiền tệ, thu nhập và giá cả, kinh tế đối ngoại... để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế yên tâm hoạt động, phát huy nội lực của nền kinh tế, đồng thời mở rộng hợp tác và phân công lao động quốc tế.
Ba là, nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả và lành mạnh.
Nhà nước phải ban hành các quy định, thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động từ bên ngoài có ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh. Chẳng hạn, sự xuất hiện của độc quyền sẽ làm cho nền kinh tế trì trệ, kém hiệu quả. Hoặc do chạy theo lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp có thể làm ô nhiễm môi trường sống, khai thác cạn kiệt tài nguyên... ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế bền vững. Vì vậy, những quy định của nhà nước về điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bảo đảm sự bình đẳng trong cạnh tranh, giá cả thị trường phản ánh đúng chi phí sản xuất, làm cho thị trường hoạt động có hiệu quả.
Bốn là, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế thị trường có nhiều tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế năng động và hiệu quả, nhưng cũng có những hạn chế, khuyết tật như: phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội... Vì vậy, nhà nước cần khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện công bằng xã hội, tạo động lực xã hội cho sự phát triển kinh tế. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thị trường là nhằm làm cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Câu 40: Phân tích cơ sở khách quan , nội dung và tác dụng của phân phối theo lao động? Việc thực hiện phân phối qua các quỹ xã hội và quỹ phúc lợi có ý nghĩa gì?
Các nguyên tắc phân bố thu nhập trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta:
a. Phân phối theo lao động:
- Đây là nguyên tắc phân phối cơ bản dưới CNXH.
- Phân phối theo lao động căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động do mỗi người đã đóng góp cho XH, không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, tuổi tác. Ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai không làm thì không hưởng. Lao động có kĩ thuật cao, lao động ở môi trường độc hại, trong những điều kiện khó khăn được hưởng thu nhập cao hơn ở môi trường bình thường. Thực chất của nguyên tắc phân phối theo lao động là phân phối theo hiệu quả mà lao động sống đã cống hiến.
- Phân phối theo lao động được thực hiện thông qua tiền lương, tiền thưởng và các loại tiền phụ cấp.
- Phân phối theo lao động không có nghĩa là người lao động sẽ nhận được toàn bộ những gì họ đã cống hiến cho XH, mà chỉ nhận được phần còn lại của tổng sản phẩm XH sau khi khấu trừ đi các khoản cần thiết.
- Khuyến khích mội người nổ lực lao động, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng năng suất lao động; thúc đẩy mọi người học tập, rèn luyện để nâng cao mức sống của những người tích cực lao động.
b. Phân phối thông qua phúc lợi tập thể, xã hội:
- Là nguyên tắc phân phối ngoài thù lao lao động được thực hiện thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và XH để xây dựng phúc lợi chung như nhà ăn tập thể, nhà trẻ, trường học, câu lạc bộ, bệnh viện, nhà dưỡng lão….
- Nó được áp dụng là 1 yêu cầu tất yếu nhằm khắc phục trong chừng mực nhất định những hạn chế của nguyên tắc phân phối theo lao động.
c. Phân phối theo vốn, tài sản, cổ phần:
Là nguyên tắc phân phối thu nhập dựa trên cơ sở sở hữu giá trị tài sản hay vốn đóng góp vào quá trình SX kinh doanh. Thực chất đây chính là hình thức phân phối theo quyền sở hữu lao động trong quá khứ để nhận 1 phần sản phẩm thặng dư.
- Người sở hữu vốn có nguồn thu nhập dưới hình thức lợi tức cổ phần, cổ phiếu, lãi suất tiền gửi….
Phân phối theo lao động là nguyên tắc mang tính định hướng XHCN là vì:
Mục đích để phân phối thu nhập cá nhân là vì lợi ích của chủ tư liệu SX và lợi ích của người lao động. Trong CNXH, 2 mặt này thống nhất là 1, vì chế độ công hữu về tư liệu SX sẽ làm cho mỗi thành viên trong XH vừa là người lao động vừa là người đồng sở hữu về tư liệu SX thuộc phạm vi toàn dân hay tập thể. Hơn nữa, khi mà tư liệu SX đã thành chung thì vấn đề còn lại chỉ là phân phối theo lợi ích của người lao động.
Sự tồn tại nguyên tắc phân phối theo lao động gắn liền với 2 điều kiện:
+ Một là vì lao động chưa trở thành nhu cầu số 1 của con người nên nó cần được ràng buộc và khuyến khích bằng lợi ích cụ thể (thu nhập).
+ Hai là sản phẩm chưa giàu có đến mức có thể phân phối theo nhu cầu cho nên sau khi bảo đảm được những nhu cầu bình thường cho người lao động, thì còn 1 phần thu nhập được phân phối theo lao động để khuyến khích mọi người hăng hái làm việc.
=> Hai điều kiện này được thể hiện đầy đủ nhất trong CNXH, do đó phân phối theo lao động là 1 nguyên tắc phân phối phù hợp nhất với CNXH, nó vừa tạo được động lực hoạt động để phát triển kinh tế mạnh mẽ và nâng cao đời sống cho con người, lại vừa là 1 cơ sở đảm bảo sự bình đẳng, văn minh cho XH. Nguyên tắc phân phối theo lao động sẽ tồn tại và vận động 1 cách phổ biến trong phương thức SX XHCN, để trở thành 1 trong những quy luật đặc trưng của CNXH.

Câu 41: Phân tích tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ ở VN?
Tính tất yếu khách quan của nhiều hình thức phân phối thu nhập cá nhân trong thời kỳ quá độ ở nước ta
Tính tất yếu khách quan của nhiều hình thức phân phối thu nhập cá nhân trong thời kỳ quá độ ở nước ta được quy định bởi các yếu tố sau:
Thứ nhất: Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần. Mỗi thành phần kinh tế là một kiểu quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở một hình thức sở hữu nhất định, và như trên đã chỉ ra, tương ứng với mỗi hình thức sở hữu nhất định sẽ có một hình thức phân phối nhất định. Mặc dù, các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế ở nước ta không tồn tại biệt lập mà đan xen vào nhau, và hợp thành một cơ cấu kinh tế thống nhất, song chừng nào còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau thì còn tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập khác nhau.
Thứ hai: Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều loại hình tổ chức - sản xuất - kinh doanh khác nhau. Trong nền kinh tế có nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia. Các thành phần kinh tế có hình thức tổ chức - sản xuất kinh doanh khác nhau. Ngay trong mỗi thành phần kinh tế cũng có thể có các loại hình tổ chức - sản xuất - kinh doanh khác nhau, do đó tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập khác nhau.
Thứ ba: Lực lượng sản xuất ở nước ta còn kém phát triển, do đó để huy động tối đa mọi nguồn lực vào phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, làm tăng của cải cho xã hội, cũng phải thực hiện nhiều hình thức phân phối khác nhau tương ứng với sự đóng góp các nguồn lực đó.
Thứ tư: Nước ta đang trong thời kỳ hình thành và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó quan hệ phân phối cũng phải là sự kết hợp các hình thức phân phối của cơ chế thị trường (như phân phối theo vốn), với các hình thức phân phối của chủ nghĩa xã hội (như phân phối theo lao động...), trong đó, các hình thức phân phối của chủ nghĩa xã hội phải đóng vai trò chủ đạo.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất - kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội"1. Điều đó tiếp tục được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và lần thứ X của Đảng.

Câu 42:1. Thế nào là kinh tế đối ngoại? 3.Tại sao mở rộng kinh tế đối ngoại là tất yếu đối với nước ta?
1. KN: Kinh tế đối ngoại là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác hoặc với các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công, hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng.
2. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đã và đang là xu hướng tất yếu với hầu hết các nước.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại bắt nguồn từ yêu cầu của quy luật về sự phân công và hợp tác quốc tế giữa các nước từ sự phân bố tài nguyên thiên nhiên và sự phát triển không đều về kinh tế - kỹ thuật giữa các nước. Trong mấy chục năm gần đây sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ và tác động của nó đã khiến cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết đối với tất cả các quốc gia. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đã và đang là xu hướng tất yếu với hầu hết các nước. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại bắt nguồn từ yêu cầu của quy luật về sự phân công và hợp tác quốc tế giữa các nước từ sự phân bố tài nguyên thiên nhiên và sự phát triển không đều về kinh tế - kỹ thuật giữa các nước. Trong mấy chục năm gần đây sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ và tác động của nó đã khiến cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết đối với tất cả các quốc gia. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế.
Một mặt, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất vượt khỏi khuôn khổ quốc gia để trở thành lực lượng sản xuất mang tính quốc tế và đẩy nhanh quá trình hình thành nền kinh tế thế giới như một chỉnh thể có nhiều quốc gia tham gia, vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau, hình thành thị trường quốc tế với giá cả quốc tế chi phối mọi hoạt động buôn bán quốc tế. Điều đó có ảnh hưởng sâu sắc và trực tiếp đến hoạt động kinh tế của mỗi quốc gia. Có thể nói, ngày nay không một quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, tiên tiến hay lạc hậu có thể phát triển kinh tế có hiệu quả nếu tách khỏi thị trường thế giới, không có quan hệ kinh tế đối ngoại.
Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ trong những thập niên gần đây, được biểu hiện ở các khía cạnh sau:
Một là, sự phân công và hiệp tác quốc tế giữa các nước, các khu vực ngày càng phát triển. Ngày nay, rất nhiều sản phẩm quan trọng dù được đăng ký ở một nước, nhưng tham gia chế tạo nó có hàng trăm công ty của hàng chục nước. Ví dụ: sản xuất máy bay Bôinh có tới 650 công ty trên thế giới đặt ở 30 nước tham gia; sản xuất ôtô Pho có tới 165 công ty ở 20 nước tham gia.
Hai là, sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế giữa các nước ngày càng tăng. Sự chuyên môn hóa, hiệp tác hoá sản xuất làm cho các nước phụ thuộc vào nhau ngày càng chặt chẽ về nhiều mặt như: nguyên liệu, kỹ thuật, công nghệ, vốn đầu tư, lao động, thị trường... Trong đó, mỗi nước có những lợi thế riêng và đều tìm cách khai thác tối đa cả lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của mình. Có thể nói, thị trường của nền kinh tế thế giới vừa là đầu vào vừa là đầu ra đối với hoạt động kinh tế của mỗi nước. Điều đó làm cho các nước vừa phụ thuộc vào nhau vừa lợi dụng lẫn nhau để phát huy thế mạnh, khắc phục thế yếu của mình, sản xuất những sản phẩm mình có ưu thế để bán và mua các sản phẩm không sản xuất được, hoặc nếu tự sản xuất thì chi phí sản xuất cá biệt sẽ rất cao.
Ba là, sự hình thành kết cấu hạ tầng sản xuất quốc tế và chi phí sản xuất quốc tế Hệ thống giao thông quốc tế gồm có: đường biển, đường sông, đường ôtô, đường sắt và hàng không. Ngày nay, mỗi dạng phương tiện đều có những tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động như: tiêu chuẩn về đường ôtô, cảng biển, sân bay, kho bãi, hệ thống tín hiệu, hệ thống luật... Các tiêu chuẩn đó đã và đang được quốc tế hóa. Cùng với các phương tiện giao thông, mạng lưới thông tin, liên lạc hiện đại cũng được quốc tế hóa.
Quốc tế hoá đời sống kinh tế còn biểu hiện ở sự hình thành chi phí sản xuất quốc tế, giá cả quốc tế. Mỗi nước do có các điều kiện sản xuất khác nhau nên sản xuất ra cùng một loại hàng hóa sẽ có chi phí sản xuất khác nhau. Dựa vào chi phí sản xuất quốc tế, các nước tìm cách khai thác các thế mạnh của mình để đạt hiệu quả kinh tế cao trong quan hệ kinh tế quốc tế. Điều đó lại thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa và hiệp tác quốc tế phát triển.
Như vậy, khu vực hóa, quốc tế hoá đời sống kinh tế là một tất yếu khách quan, nó đòi hỏi các quốc gia phải tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực quốc tế và trong nước. Đối với nước ta, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại không nằm ngoài tính quy luật và mục đích nói trên.
Sự tác động của cách mạng khoa học và công nghệ cùng với sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia và vai trò ngày càng tăng của các định chế kinh tế - tài chính toàn cầu và khu vực đã thúc đẩy quốc tế hoá đời sống kinh tế phát
triển đến giai đoạn cao - toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan của thời đại, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Toàn cầu hoá kinh tế đang phát triển nhanh chóng, gia tăng mạnh mẽ quy mô và phạm vi giao dịch hàng hoá, dịch vụ, vốn, công nghệ, kỹ thuật. Toàn cầu hoá kinh tế tạo khả năng để mở rộng thị trường, thu hút vốn, công nghệ, đồng thời đặt ra thách thức mới về nguy cơ tụt hậu ngày càng xa của các nước kém phát triển và sự cạnh tranh quốc tế rất gay gắt. Toàn cầu hoá kinh tế khiến cho không một nền kinh tế nào có thể phát triển một cách biệt lập "đóng cửa", vì nếu biệt lập "đóng cửa" thì sẽ lạc hậu về kinh tế, xã hội... Đồng thời, cộng đồng quốc tế đứng trước nhiều vấn đề kinh tế, xã hội có tính toàn cầu mà không một nước riêng lẻ nào có thể giải quyết được mà không cần có sự hợp tác đa phương.
Như vậy, toàn cầu hoá kinh tế càng khẳng định tính tất yếu khách quan của mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Mở rộng kinh tế đối ngoại là tất yếu đối với nước ta
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại mang lại lợi ích to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.
- Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế, nối liền thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới, mở rộng thị trường ra bên ngoài, đồng thời góp phần phát triển thị trường trong nước.
- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nước ta sẽ khai thác được các nguồn lực bên ngoài vô cùng quan trọng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đó là nguồn vốn, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- Tạo điều kiện khai thác và phát huy có hiệu quả lợi thế so sánh, các nguồn lực trong nước, kết hợp nguồn lực trong nước với nguồn lực bên ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển kinh tế.
- Góp phần thúc đẩy tăng trường kinh tế, tạo nhiều công ăn việc làm, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân.
- Góp phần đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tất nhiên, những lợi ích to lớn của mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại chỉ đạt được khi hoạt động kinh tế đối ngoại vượt qua được những thách thức của toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế và giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức sâu sắc về tính tất yếu khách quan và lợi ích to lớn của mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế, xuất phát từ tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ "mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế"1. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định chủ trương: "phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững"2, xác định nhiệm vụ: "chủ động hội nhập kinh tế có hiệu quả, mở rộng kinh tế đối ngoại"3. Đại hội lần thứ X của Đảng đã đánh giá những thành tựu và hạn chế của hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn 2001-2005, đồng thời xác định "đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất"4 là một nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010.

Câu 43: Trình bày các nguyên tắc cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở nước ta?
Bài làm:
1.Các nguyên tắc cơ bản:
1.Bình đẳng:
Là nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng, nền tản cho việc thiết lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước.
Nguyên tắc trên xuất phát từ yêu cầu coi mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế là 1 quốc gia độc lập có chủ quyền, bắt nguồn từ yêu cầu của sự hình thành và phát triển của thị trường quốc tế mà mỗi quốc gia là thành viên. Các quốc gia đựơc đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự chủ.
Kiên trì thực hiện nguyên tắc này là nhiệm vụ chung của mọi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển đang ở thế bất lợi so với các nước phát triển.
2. Cùng có lợi.
Giữ vai trò nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.
Nguyên tắc này là động lực kinh tế để thiét lập và duy trì mối quan hệ kinh tế lâu dài giữa các quốc gia.
Đây là một trong những nguyên tắc làm cơ sở cho chính sách kinh tế đối ngoại và Luật đầu tư nước ngoài. Nguyên tắc này được cụ thể hoá thành những điều khoản làm cơ sở để kí kết trong các nghị định thư giữa các chính phủ và trong các hợp đồng kinh tế giữa các tổ chức kinh tế các nước với nhau.
3. Tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia.
Trong quan hệ quốc tế, cách quốc gia với tư cách là quốc gia độc lập có chủ quyền về mặt chính trị, kinh tế , xã hội và địa lý.
Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi bên trong hai bên hoặc nhiều bên phải thực hiện các yêu cầu : tôn trọng khoản định đã ký trong các nghị định giữa các chính phủ hoặc các hợp đồng kinh tế; không đưa ra những điều kiện làm tổn hại lợi ích của nhau; không dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp cào đường lối, thể chế chính trị của các quốc gia.
4. Giữ vững độc lập , chủ quyền dân tộc và củng cố định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn
Là nguyên tắc mang tính chất chung cho tất cả các nước xã hội chủ nghĩa , trong đó có Việt Nam.
Quan hệ kinh tế giữa các nước không đơn thuần là quan hệ vè lợi ích kinh tế mà còn cả lợi ích chính trị. Mở rộng quan hệ kinh tế phải tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.
Bốn nguyên tắc trên có mối quan hệ mật thiết với nhau và đều có tác dụng chi phối hoạt động kinh tế đối ngoại giữa các nước trong đó có VN. Vì vậy, không được xem nhẹ bất cứ nguyên tắc nàokhi thiết lập, duy trì và mở rộng kinh tế đối ngoại.
2.Các giải pháp chủ yếu :Để thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại cần thực hiện đồng thời hàng loạt các giải pháp, trong đó chủ yếu là các giải pháp dưới đây:1. Đầu tiên là đảm bảo sự ổn định về môi trường chính trị, kinh tế, xã hội bởi vì môi trường chính trị, kinh tế xã hội là nhân tố cơ bản, có tính quyết định tới hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài.2. Hai là phải xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức đang hình thành và từng bước phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội càng đóng vai trò quan trọng và yêu cầu chất lượng ngày càng cao, đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật mà trước hết là hệ thống thông tin liên lạc, giao thông vận tải.3. Ba là tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế đối ngoại. Nếu thiếu sự quản lý của Nhà nước, kinh tế đối ngoại không thể mở rộng và mang lại hiệu quả cao, thậm chí dẫn đến những hậu quả khó lường không chỉ về kinh tế mà còn về cả chính trị.4. Bốn là có chính sách thích hợp đối với từng hình thức kinh tế đối ngoại. Đây là giải pháp quan trọng nhằm phát triển đa dạng có hiệu quả kinh tế đối ngoại. Một mặt phải mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại, mặt khác phải sử dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện cụ thể.5. Cuối cùng là việc xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trong quan hệ kinh tế đối ngoại.. Đây là một vấn đề hết sức phức tạp và cần được xử lý linh hoạt. Đối với việc xây dựng đối tác trong nước, phải từng bước xây dựng các đối tác mạnh có tầm cỡ quốc tế, đóng vai trò đầu tàu trong quan hệ kinh tế quốc tế. Việc lựa chọn đối tác thích hợp cũng là một vấn đề rất quan trọng. Trong tương lai và lâu dài, cần quan tâm hơn đến các công ty xuyên quốc gia vì đây là nguồn lực quốc tế lớn mà chúng ta cần khai thác.Tóm lại, 5 giải pháp nói trên tuy có vị trí khác nhau nhưng sự phân định chỉ có ý nghĩa tương đối. Để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp trên để tạo ra sức mạnh tổng hợp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại của nền kinh tế nước ta.

Câu 44: Trình bày các hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại?Phân tích hình thức ngoại thương?
Bài làm:Có sáu hình thức kinh tế đối ngoại.1. Hình thức đầu tiên là hình thức hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công, xây dựng xí nghiệp chung, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất quốc tế...Nhận gia công cho nước ngoài là một hình thức tốt, tận dụng được nguồn lao động, tạo nhiều việc làm và tận dụng công suất máy móc hiện có.Nhưng, muốn mở rộng việc nhận gia công cho nước ngoài phải chọn những gì thế giới cần chứ không phải là những gì mà chủ quan ta mong muốn.Xí nghiệp chung hay hỗn hợp là kiểu tố chức xí nghiệp công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ và tổ chức tài chính – tín dụng. Về mặt pháp lý, xí nghiệp chung thường được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần với trách nhiệm hữu hạn tương ứng với số vốn góp của các thành viên. Các xí nghiệp này thường được ưu tiên xây dựng ở những ngành nghề kinh tế quốc dân hướng vào xuất khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu và trở thành nguồn thu ngoại tệ chuyển đổi hay tạo điều kiện cho Nhà nước tiết kiệm ngoại tệ.Do phân công lao động quốc tế tất yếu dẫn đến hợp tác quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá, có thể là chuyên môn hoá giữa những ngành khác nhau hay chuyên môn hoá trong cùng một ngành. Hình thức này làm cho cơ cấu kinh tế ngành của các nước tham gia đan kết, phụ thuộc lẫn nhau.2. Hình thức hợp tác khoa học kỹ thuật. Hình thức này được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như phối hợp nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân...Đối với những nước lạc hậu về kỹ thuật, phương tiện vật chất kỹ thuật còn thiếu, đội ngũ cán bộ mỏng, vốn đầu tư nghiên cứu ít thì việc hợp tác khoa học kỹ thuật có nghĩa nghĩa rất quan trọng, giúp các nước này nhanh chóng rút ngắn khoảng cách lạc hậu về khoa học kỹ thuật với các nước phát triển.3. Ngoại thương hay thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia. Ngoại thương có vai trò rất quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với những quốc gia đang phát triển nhằm góp phần làm tăng của cải và sức mạnh tổng hợp của mỗi nước. Nó là một động lực của sự tăng trưởng kinh tế quốc dân, nâng cao trình độ công nghệ và ngành nghề trong nước, “điều tiết thừa, thiếu” của mỗi nước, tạo điều kiện giao dịch việc làm cho người lao động trong nước.Nội dung cơ bản của ngoại thương bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, thuê nước ngoài gia công tái xuất khẩu trong đó xuất khẩu là hướng ưu tiên trọng điểm trong ngoại thương các nước nói chung và Việt Nam nói riêng.
(Phần này sẽ nêu thêm vào nếu câu hỏi là phân tích ngoại thương): Dưới tác động của cuộc cách mạng KHCN và xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá, ngoại thương có những đặc điểm mới:
- Tốc độ tăng trưởng của ngoại thương quốc tế tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc dân.
- Tốc độ tăng trưởng của ngoại thương hang hoá “ vô hình” có xu hướng tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của hang hoá hữu hình.Do sự thay đổi cơ cấu kinh tế giữa ngành sản xuất vật chất và nghành dịch vụ trong mỗi quốc gia và quốc tế.
- Cơ cấu mặt hàng có sự biến đổi sâu sắc thưo hướng hàng hoá nhu cầy tầng 1( nhu cầu đời sống vật chất) giảm xuống và hàng hoá nhu cầu tầng 2 ( nhu cầu đời sống văn hoá tinh thần) tăng nhanh…
- Phạm vi, phương pháp và công cụ cạnh tranh của thương mại quốc tế diến ra rất phong phú và đa dạng.
- Chu kỳ sống của từng loại sản phẩm ngày càng rút ngắn. Hàng hoá có hàm lượng công nghệ cao có sức cạnh tranh mạnh hơn so với các hang hoá truyền thống.
- Quá trình phát triển thương mại quốc tế đòi hỏi một mặt phải tự do hoá thương mại, mặt khác phải thực hiện bảo hộ mậu dịch một cách hợp lý.
Để biến ngoại thương thành đòn bẩy kinh tế cần phải nắm bắt được lợi thế so sánh . Đương nhiên lợi thế so sánh không ở trạng thái tĩnh mà sẽ thay đổi do sự phát triển không đồng đều về công nghệ.
Trong hoạt động ngoại thương ở nước ta hiện nay cần hướng vào giải quyết các vấn đề:- Tăng kim ngạch xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.- Chính sách nhập khẩu phải tập trung vào việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phục vụ chiến lược hướng mạnh vào sản xuất đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng có thể sản xuất hiệu quả ở trong nước.- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính sách thương mại tự do và chính sách bảo hộ thương mại.- Hình thành tỷ giá hối đoái một cách chủ động, hợp lý.4. Hình thức đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên có quốc tịch khác nhau cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư nhằm đưa lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia.Đầu tư quốc tế có tác động hai mặt đối với các nước nhận đầu tư. Một mặt làm tăng nguồn vốn, tăng công nghệ mới, nâng cao trình độ quản lý, tạo việc làm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, tiếp cận kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới. Mặt khác, đối với các nước kém phát triển, nó sẽ làm tăng sự phân hoá giữa các gioai cấp trong xã hội, làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, tăng tính phụ thuộc vào bên ngoài.Có hai hình thức đầu tư quốc tế:Đầu tư trực tiếp (FDI) là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thông nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả và rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận. Đầu tư trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức như hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, xí nghiệp liên doanh....Đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư mà quyền sử hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có vốn đầu tư không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi dưới dạng lợi tức cho vay hoặc lợi tức cổ phần. Trong các hình thức đầu tư gián tiếp thì vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) là bộ phận quan trọng nhất bao gồm các khoản hỗ trợ không hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi khác.5.Hình thức tín dụng quốc tế.Đây là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội, các cá nhân trong nước với các chính phủ, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ, các cá nhân ngoài nước, trong đó với các tổ chức ngân hàng thế giới và ngân hàng khu vực là chủ yếu.Tín dụng quốc tế được thể hiện dưới nhiều hình thức như vay nợ bằng tiền tệ, vàng, công nghệ, hàng hóa hoặc thông qua hình thức đầu tư trực tiếp.Vốn tín dụng quốc tế thường dùng để mở rộng sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng - những khu vực vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm nhưng cần phải được sử dụng có hiệu quả.6. Cuối cùng là các hình thức thu ngoại tệ và du lịch quốc tế.Các hình thức thu ngoại tệ chủ yếu là du lịch quốc tế (bao gồm các hoạt động tổ chức, hướng dẫn du lịch, cung cấp các dịch vụ như ăn uống, nghỉ ngơi, thăm quan, lưu niệm... cho du khách), vận tải quốc tế (sử dụng các phương thức đường biển, đường bộ, đường không... trong đó vận tải đường biển có vai trò quan trọng nhất), xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ (đáp ứng nhu cầu lao động ở những ngành khó cơ giới hoá, tự động hoá hoặc cần nhiều lao động) và nhiều dịch vụ khác (dịch vụ ăn uống, tư vấn, thông tin bưu điện...)Đối với Việt Nam, việc phát triển nhanh các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ đem lại lợi ích cả trước mắt lẫn lâu dài.

Câu 45: Phân tích quan điểm chủ động hội nhập kinh tế, quốc tế của Đảng CSVN?
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại.
Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập hay không mà là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sự cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong quá trình hội nhập. Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nhất là Nghị quyết 07- NQ/W ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh quan điểm: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Theo quan điểm này, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế trong nước. Việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và hàng hoá là một trong những nội dung quan trọng nhất để hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010.
( tham khao thêm phần dưới nếu muốn phân tích kỹ)
Trong thời gian qua, nền kinh tế ở Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng như: tăng trưởng GDP ở nhịp độ cao, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng của công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp. Tỉ lệ huy động vốn cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng, các nguồn lực trong xã hội được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu vực kinh tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng có tiến bộ, năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên. Tuy nhiên, hiệu quả sức cạnh tranh kinh tế nước ta vẫn còn một số tồn tại:
- Xét về các chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế, Việt Nam xếp thứ 48/53 nước được xem xét năm 1999, 53/59 nước năm 2000, 60/75 nước năm 2001 ; 65/80 năm 2002 nước tham gia xếp hạng. Năm 2004 giảm 17 bậc so với năm 2003, năm 2005 giảm tiếp 4 bậc so với năm 2004 trong các nước xếp hạng (theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới - WEF)
- Sức cạnh tranh và năng lực quản lý doanh nghiệp còn yếu, thiếu sự chuẩn bị để ứng phó hiệu quả với quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng.
- Xét tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ và uy tín doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của hàng Việt Nam cũng thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Những lợi thế về nguồn lao động trẻ đang mất dần, vấp phải sự cạnh tranh của các nước trong khu vực nhất là Trung Quốc, việc phát triển các mặt hàng mới đang gặp khó khăn về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực và thị trường tiêu thụ.
- Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa tương xứng với mức tăng đầu tư, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, chưa phát huy được các lợi thế so sánh cạnh tranh của ngành, sản phẩm. Khu vực dịch vụ tuy được đầu tư khá song tỷ trọng tăng chậm trong cơ cấu GDP, hệ thống dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất vừa thiếu, vừa yếu và kém hiệu quả. Cơ cấu lao động chuyển dịch rất chậm không tương xứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.
- Mặc dù việc phát huy các nguồn nội lực cho đầu tư phát triển có nhiều tiến bộ, vốn trong nước chiếm trên 70%, nhưng lại xảy ra tình trạng giảm sút của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mấy năm qua: năm 2002 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút mới chỉ bằng 60% so với cùng kỳ năm 2001.
- Hoạt động tài chính - tiền tệ tuy có tiến bộ nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro, lãi suất tiền đồng quá cao so với lãi suất USD và rất cao so với khả năng sinh lời của nền kinh tế, làm tăng chi phí đầu vào của sản xuất kinh doanh, giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Vốn huy động của hệ thống ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, nhưng lại được sử dụng một tỷ lệ khá để cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các ngân hàng chịu sức ép bất lợi về lợi nhuận và làm giảm khả năng đề phòng rủi ro.
Nhìn chung, sự chuẩn bị để ứng phó với những cách thức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta còn chậm, thiếu một Chiến lược tổng thể hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia dẫn đến sự lúng túng trong xây dựng chiến lược của từng bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Một số chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đưa vào cuộc sống chậm, môi trường kinh doanh còn chưa bình đẳng, chính sách còn thiếu đồng bộ, nhất quán, khó thực hiện.
Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cần xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia mà cốt lõi của nó là hệ thống các chính sách cạnh tranh. Việc xây dựng và thực hiện chính sách cạnh tranh cần theo hướng: giảm dần tiến tới xoá bỏ phân biệt đối xử trong kinh doanh, chống hạn chế cạnh tranh, giảm thiểu các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, hạn chế kiểm soát độc quyền. Theo hướng này, cần nhanh chóng ban hành Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Ngoài ra, cần tập trung vào các giải pháp khác như:
- Cải thiện nhanh môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trong nước, nhất là đầu tư nước ngoài theo hướng kiên quyết giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc thẩm quyền của Nhà nước, đặc biệt là một số loại giá có tính độc quyền (điện, viễn thông, dịch vụ cảng biển, phí cầu đường); giải quyết kịp thời những khó khăn ách tắc trong việc giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, đảm bảo tính nhất quán minh bạch của chính sách, tôn trọng và đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư; xây dựng cơ sở pháp lý, thiết lập một mặt bằng áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài với các quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng.
- Thực hiện quá trình cải cách hệ thống thuế nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập mở cửa nền kinh tế, tiến tới xây dựng hệ thống thuế thống nhất cho các thành phần kinh tế; thực hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế theo hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam đã và sẽ ký kết (AFTA, Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, WTO); công khai thời gian và mức độ cắt giảm thuế nhập khẩu để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động trong hội nhập và cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế.

- Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nhất là đối với các đối tác lớn như: EU, Mỹ, Nhật Bản… để mở rộng thị trường, tranh thủ công nghệ nguồn, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm phát huy lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; khắc phục căn bản tình trạng bố trí đầu tư dàn trải phân tán, dứt khoát không đầu tư vào những công trình dự án kém hiệu quả đồng thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư như BOT, BT, phát hành trái phiếu công trình…
- Khẩn trương xây dựng, triển khai thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập kinh tế quốc tế; tích cực đàm phán và chuẩn bị khẩn trương những điều kiện cần thiết trong nước để nước ta có thể gia nhập WTO vào năm 2006, đặc biệt tập trung vào sắp xếp, cải cách doanh nghiệp nhà nước, lành mạnh hoá hệ thống tài chính, ngân hàng, đẩy mạnh cải cách thể chế, tăng cường hiệu lực của bộ máy hành chính Nhà nước, tiến hành cải cách tiền lương, nâng cao trách nhiệm, trình độ của bộ máy công chức, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra hiện nay./.